31/03/2013



Vài cảm nghĩ về dưỡng sinh
Tố Nguyên

Mỗi năm đến hè...
S
inh là sự sống. Theo cái nhìn của văn hóa truyền thống muôn đời của người Việt chúng ta, sự sống là cái đức lớn của trời đất (Thiên địa chi đại đức viết sinh). Sự sống bao trùm cả trời đất. Ngày nay, khoa học khám phá ra rằng từ nguyên tử đến vũ trụ đều đầy ắp sự sống. Cả cái gọi là chân không cũng chứa nguồn năng lực sống vô tận. Cái phần gọi là vật chất hữu hình từ plasma, vi trần, nguyên tử đến các tinh cầu, các thiên hà… chỉ chiếm khoảng 4 phần trăm của tất cả những gì làm nên vũ trụ mà thôi. Sự hiểu biết của khoa học về 4 phần trăm của vũ trụ nầy vẫn còn mù mịt. Cứ một sự hiểu biết tìm được thì nhiều điều không hiểu biết lại hiện ra. Từ năng lực của cảnh giới “trường không nhất phiến - tức zero point field” đến cảnh giới tự giác viên dung của vũ trụ (Self-aware universe, Conscious universe…) đều thấy sự giới hạn của khoa học hiện ra rõ ràng hơn bao giờ hết. Rồi cái gọi là tiểu vũ trụ của con người với tâm cảnh vô biên (Limitless Mind) thì khoa học phải thú nhận là chưa đi được một bước nào vững chắc cả. Nếu có đi được bước chập chững nào thì cũng chỉ nương nhờ vào nền minh triết trong các kinh điển xưa của những bậc giác ngộ mà thôi.
Về phương diện y học, Tây phương đang lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng trong khắp mọi lãnh vực mà chưa tìm ra được cách giải quyết thỏa đáng nào. Từ sức khỏe đến bệnh tật, từ vai trò của bệnh viện đến liên hệ mọi mặt giữa bác sĩ và bệnh, từ nguyên nhân của bệnh tật đến cách chữa trị, từ hiệu lực của thuốc men đến sự thao túng của các đại công ty dược phẩm, bảo hiểm, đâu đâu cũng thấy sự khủng hoảng trầm trọng. Y học Tây phương cho rằng tình trạng sức khỏe hay bệnh tật nơi thân thể con người là hoàn toàn thuộc phạm vi hữu hình của sinh học và hóa học. Đó là một tiền đề sai lầm gây tai hại không thể đo lường cho tình trạng sức khỏe và bệnh tật của con người ngày nay. Ngày nay, phần lớn bệnh tật thuộc thân thể con người, ngoài việc ăn uống, môi trường sống thuộc vật chất, hầu hết đều do phần vô hình thuộc đời sống tâm linh, tinh thần và tâm lý - vô hình gây ra. Sự đói khổ về tình người, về sự khắc khoải của tâm tư, về sự suy đồi của đạo đức, về sự căng thẳng của cuộc sống, về sự bất an của tâm hồn, về thói quen xấu, về sự nhàm chán của cuộc đời, về sự trống rỗng của nghĩa sống… ở các nước thừa mứa về vật chất đôi khi còn thê thảm hơn là sự đói khổ thuộc vật chất ở các nước nghèo. Và chính sự đói khổ thuộc tinh thần nầy là căn do của hầu hết những bệnh tật ngày nay.
Do đó, dưỡng sinh không phải chỉ là dưỡng thân thể để được khỏe mạnh và tránh bệnh tật mà thôi, mà căn bản là còn trưởng dưỡng niềm vui sống. Không bệnh tật không có nghĩa là sống mạnh. Sống còn không có nghĩa là sống tròn. Vậy dưỡng sinh thật sự là trưởng dưỡng niềm vui sống để cuộc sống được mạnh, được tròn, được an lành. Cuộc sống đầy căng thẳng, hỗn loạn, điên đảo, phiền não, lo sợ, bất an, mù mịt về nghĩa sống, về cứu cánh của cuộc đời, một đời sống thiếu đạo đức, thiếu tình người sẽ gây ra không biết bao nhiêu bệnh tật cho cả thân thể lẫn tâm hồn.
Không gì làm hao mòn, làm tàn hại cuộc đời bằng nỗ lực thoả mãn những ham muốn thuộc cảm xúc của giác quan, những ham muốn mà Đạo Phật gọi là lục tặc (tặc là kẻ tàn hại) thuộc lục căn, lục thức, lục trần. Không biết niềm vui sống thật sự là gì, lấy cảm giác chốc lát, phù du, làm niềm vui thì tâm hồn càng ngày càng bất an, cuộc đời càng ngày càng trống vắng.
Những bậc giác ngộ, những bậc hiền thánh, từ cổ chí kim trong mọi nền văn hóa, từ Đông sang Tây, từ Bắc chí Nam, đều dạy rằng, niềm vui sống thật sự không có từ bên ngoài, không phải do cái bên ngoài mang đến. Khi tâm vui thì ngoại cảnh thành vui. Khi tâm buồn thì ngoại cảnh đều buồn, đúng như thi hào Nguyễn Du đã từng nói, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Giải thoát, giác ngộ, niết bàn, thiên đàng… là niềm vui sống chân thật nầy. Niềm vui sống chân thật nầy là vĩnh cửu và luôn luôn sẵn có nơi tâm của tất cả mọi người. Khi niềm vui nầy hiển hiện ngời sáng nơi tâm hồn thì những niềm vui giả tạo bên ngoài trở thành mờ nhạt, không còn sức mê hoặc, hấp dẫn nữa. Khi được sống với niềm vui thiêng liêng nầy thì sẽ biết rõ đâu là thật (chân), đâu là không thật (vọng), đâu là vĩnh cửu, đâu là vô thường, cái gì thật sự là mình, cái gì không phải là mình, cái gì là hiểu biết, cái gì là vô minh, cái gì là khổ, cái gì là an vui, cái gì là sáng, cái gì là tối…, nhờ thế mà không còn phung phí cuộc đời chạy theo những ảo ảnh phù du, vọng huyễn, vô thường của cuộc đời nữa. Vô minh là không biết đến nguồn sống an vui chân thật nơi chân tâm nầy. Bỏ cảnh giới “Thường Lạc Ngã Tịnh” của chân tâm để chạy theo bóng trần hư ảo, vô thường ở sự vật bên ngoài thì chẳng khác nào như tìm thoả mãn cơn đói nơi bánh vẽ mà thôi.
Do đó, dưỡng sinh không chỉ hạn hẹp vào phạm vi thể chất mà thôi. Trong cuốn sách “Dịch học với dưỡng sinh” của Lưu Tùng Lâm và Đặng Thủ Nhiêu, Nhà xuất bản Hà Nội, tác giả luôn luôn nhấn mạnh:
Phép dưỡng sinh phải lấy dưỡng tâm làm chính (trang 150).
Đa luyện công bất như đạo lí thanh. Đạo lí thanh bất như đạo đức chân.
(Luyện công nhiều không bằng hiểu rõ về đạo lí, hiểu rõ về đạo lí không bằng sống thật đời đạo đức) (trang 186).
Dưỡng đức là căn bản của dưỡng sinh (trang 130).
Chỉ có phẩm đức cao thượng mới có thể đưa việc dưỡng sinh vào chính đạo (tr.194).
Thái thượng dưỡng thần, kỳ thứ dưỡng hình. (Cao nhất là dưỡng thần. Kế đến là dưỡng thân thể) (tr.194).
Tôn Tư Mạc nói: “Bách hạnh có đủ rồi, thì không uống thuốc mà cũng đủ để kéo dài tuổi thọ. Đức hạnh không tốt thì dù dùng đủ ngọc dịch, kim đan cũng không đủ để thêm tuổi thọ” (tr.202).
An vui là hai chữ tuyệt vời của tiếng Việt. An là căn bản của vui. Phải có an rồi mới có vui được. Tâm hồn cũng như cuộc sống lúc nào cũng lo sợ bất an thì không thể nào có niềm vui sống được. An vui là hoa trái của cuộc đời. Và tình thương yêu là nguồn sống nuôi dưỡng để cuộc đời có được những hoa trái an vui đó. May mắn thay cho xã hội nào còn có được những người thật sự sống, thật sự dưỡng nuôi và chia sẻ tình thương yêu. Sự đầy vơi, thăng trầm của cuộc sống tùy theo sự đầy vơi, thăng trầm của tình người mà thôi.
Khám phá nổi tiếng của bác sĩ Dean Ornish là hầu hết bệnh tim mạch là do cuộc sống khô héo tình thương yêu gây ra. Hiệu lực từ cách trị bệnh tim mạch của bác sĩ là khơi lại nguồn thương nuôi dưỡng cuộc đời. Hay gây hấn, nóng giận, ganh ghét, thù hận, bất an, lo lắng, tham lam, ích kỉ, đua tranh, thiếu chân thành, không đạo đức… là dấu hiệu của sự khô héo tình người. Hầu hết những bệnh thời đại như tim mạch, tiểu đường, thấp khớp, những bệnh thuộc hệ thống tiêu hóa… đều từ đó mà ra.
Mùa hoa phượng nở.

Trong quyển sách “Không gian thời gian và y học”, Bác sĩ Larry Dossey có kể đến một cuộc thí nghiệm tại Trường Đại học Tiểu bang Ohio, Hoa Kỳ. Thí nghiệm nầy nhằm nghiên cứu sự tác hại của chất béo và cholesterol đối với sự tắc nghẽn động mạch và những biến chứng khác của bệnh tim. Họ nuôi một số thỏ với thức ăn có nhiều chất cholesterol trong một thời gian, rồi mổ chúng ra để xem hậu quả của chất nầy ra sao. Họ khám phá ra rằng, trong lúc hầu hết thỏ đều bị bệnh trầm trọng thì có vài con thỏ ít bị tác hại hơn những con thỏ khác. Khoảng 60% ít hơn. Họ không biết tại sao lại có sự khác biệt nầy, vì tất cả điều kiện sống và thức ăn đều giống nhau. Sau khi dò xét cẩn thận, họ biết rằng, người cho thỏ ăn, vì thương những con thỏ nầy nên thường bồng bế, nâng niu, và nói chuyện ngọt ngào với chúng mỗi khi cho chúng ăn. Nghi rằng chính tình thương nầy là yếu tố đã làm nên sự khác biệt đó, người ta làm những thí nghiệm khác với hai nhóm thỏ riêng biệt. Đối với nhóm thứ nhất, người nuôi chỉ cho ăn thôi, không được biểu lộ bất cứ cử chỉ thương yêu nào. Và với nhóm thứ hai, khi cho ăn, mỗi con thỏ đều phải được bồng bế, nâng niu và nói chuyên ngọt ngào. Hai lần thí nghiệm như thế đều xác định rằng chính tình thương đã làm tác dụng của chất cholesterol đối với động mạch giảm 60% đối với nhóm thỏ thứ hai.
Sau đó, không biết bao nhiêu thí nghiệm được thực hiện trong nhiều lãnh vực khác nhau. Kết quả cho thấy rằng, tình thương yêu làm cho cây trồng lớn mạnh hơn, ít bị sâu tàn phá hơn và cho nhiều hoa trái tươi đẹp hơn, ngon ngọt hơn. Trẻ con lớn lên trong những gia đình thiếu tình thương thì khó mà phát triển trọn vẹn được.
Ngài Luther Burbank, nhà khoa học với tâm thánh, vào đầu thế kỷ XX, đã cống hiến rất nhiều phát minh cho ngành sinh vật học. Ngài học Đạo với bậc Đại giác chân sư Yogananda Paramahamsa rất chí thành và tâm đắc. Trong quyển sách “Tự truyện của một vị chân sư ”(Autobiography of a Yogi), Chương 38, có kể về một phát minh có tầm kích khai mở về đời sống tâm linh hết sức sâu xa:
“Trong lúc tiến hành một công trình thực nghiệm để làm biến đổi một loại xương rồng có gai thành không gai, tôi thường nói với cây xương rồng bằng một tấm lòng đầy cảm xúc thương yêu: “Con không có gì phải sợ. Con không cần phải tự vệ với những gai nhọn của mình”. Dần dần, loại cây xương rồng hữu dụng nầy biến thành một loại khác, không còn gai nữa”. Ngài Yogananda Paramahamsa xin loại xương rồng không còn gai nầy đem về đạo trường của mình trồng thành cả một khu vườn lớn để nêu gương sống cho những đệ tử của ngài cũng như cho những người có cơ hội đến đạo trường của ngài.
Thử hỏi bao nhiêu tài nguyên của trái đất cũng như của con người đã được dùng để tạo nên những loài gai góc đó.
Một ngày nọ, Tổng thống Abraham Lincoln mặc đại lễ phục, ngồi xe tứ mã, với không biết bao nhiêu người hộ tống, đưa ông đến nơi buổi lễ đọc diễn văn trước lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ. Trên đường đi, ông chợt nghe tiếng kêu cứu của một con heo con đang phấn đấu để tự cứu dưới một rãnh nước nơi công viên mà ông đi qua. Ông ra lệnh cho xe ngừng lại, và tự ông xuống mương ôm con heo lên. Quần áo lem luốc hết. Nhiều người phàn nàn tại sao ông phải làm như vậy vì có thể gây trở ngại cho thời gian khai mạc buổi lễ. Con heo có giá trị gì đâu mà phải cứu. Hơn nữa, ông có thể ra lệnh cho người khác làm còn hiệu quả hơn nhiều. Ông Lincoln trả lời: “Các người nghĩ là ta cứu con heo phải không? Không phải vậy đâu. Thật ra là ta đã cứu lương tâm của ta đó. Đối với lương tâm của mỗi người thì chỉ có tự cứu chứ không ai cứu cho mình được”. Sống như vậy là thật sự dưỡng sinh một cách cao quí nhất. Làm việc từ thiện đúng nghĩa là làm theo tiếng gọi của lương tâm, là trưởng dưỡng tình người. Khi lương tâm và tình người ngời sáng thì bóng tối sẽ biến mất giống như khi mặt trời lên thì bóng tối của đêm đen sẽ không còn nữa vậy.
Nhiều bậc chân tu sống nơi rừng sâu núi thẳm lẫn lộn với đủ loại dã thú độc dữ. Các ngài được an toàn chỉ nhờ vào tình thương yêu vô lượng vô biên nơi tâm thanh tịnh vô nhiễm của các ngài mà thôi.
Vậy dưỡng sinh là dưỡng cái toàn sinh của nghĩa sống, là dưỡng niềm an vui thiêng liêng. Một nụ cười bao dung, một lòng tri ân sâu xa đối với lòng tốt của người, bỏ qua lầm lỗi của người khác, không ghét hay phê bình chỉ trích người, thương yêu kính trọng tất cả, không bỏ qua cơ hội làm việc thiện theo khả năng của mình, sống với đại ngã vô biên, bỏ qua cái hẹp hòi của vọng ngã… Đó là những cách dưỡng sinh tạo nên niềm vui sống. Niềm vui sống nầy sẽ soi sáng đường về cảnh giới nhất chân viên dung, thường lạc ngã tịnh của bản diệu giác tâm, của đại viên cảnh trí, của tình thương yêu ngời sáng thập phương, trong đó sẽ không có bóng tối đau khổ của cái gọi là sinh lão bệnh tử vọng huyễn của cuộc đời. Không biết có ai tin đủ để sống như vậy không? 

No comments:

Post a Comment