18/10/2015


  TRƯỜNG XƯA … THƯƠNG NHỚ                                                                                                            HUỲNH  TẤN KIM KHÁNH
      (Tiếp theo)
7. Thương nhớ trường xưa
         Vào thập niên 90 của thế kỉ trước, một số anh chị em giáo viên Trung học Kiến Hòa đang ở tại Sài Gòn thỉnh thoảng gặp nhau, có khi chừng vài người, tại một góc cà phê để tâm sự và thăm hỏi tin tức bạn bè gần xa.
         Giữa năm 1994, Tam Nhiều, Trần Thanh Sao, Nguyễn Trung Hiếu và tôi có buổi ăn sáng tại Bà Chiểu. Cuối bữa, anh em chung tiền thanh toán (hồi đó còn nghèo, thường phải đóng góp) thì Tam Nhiều tuyên bố bao anh em. Nhưng cuối cùng Tam Nhiều cho biết chính anh Quế (đang ở Đức) thỉnh thoảng gửi ít tiền để anh em có dịp gặp nhau cho vui.
          Trong chúng tôi có người quê ở Mỹ Tho như Tam Nhiều, ở Gò Vấp có Trần Thanh Sao, Nguyễn Trung Hiếu và tôi quê Bến Tre, cùng dạy Trung học Kiến Hòa 5, 7 năm, ngày càng gắn bó: anh chị em đồng nghiệp, học trò, phụ huynh học sinh… Còn ngôi trường thân yêu, hồ Chung Thủy xanh trong, dòng Hàm Luông mênh mang, sông Trúc Giang hiền hòa, vườn cây trái xanh tươi. Riêng tôi, quê gốc ở Mỏ Cày, càng cảm nhận sâu sắc rằng quê hương chính là nguồn mạch tình cảm và tinh thần, trong đó thấp thoáng hình bóng ngôi trường đầy kỷ niệm vui buồn, yêu thương, hòa quyện với bao gương mặt bạn bè, đồng nghiệp qua những tháng năm dài.
            Cho nên bốn người chúng tôi quyết định ngay: tập hợp nhóm Cựu Giáo viên Trung học Kiến Hòa. Sau đó, một số em học sinh cũ gồm Lưu Huỳnh Thống, Phan Nhựt Linh, Võ Thị Kim Vững, Ngô Thị Thanh Thủy, Phan Thị Duyên Hương ngỏ ý được cùng với thầy cô tổ chức họp mặt hàng năm. Chúng tôi bàn bạc: giữa hay cuối năm, thời điểm nào thích hợp; họp tất niên để chào đón tân niên nếu trước mùng 10 tháng Chạp thì có người còn làm việc, còn sau 20 tháng Chạp thì cận Tết quá. Thế là chọn ngày chủ nhật rơi vào khoảng mùng 10 đến 20 tháng Chạp mỗi năm.
            Thấm thoát đã 21 năm rồi. Thầy trò cứ mong đến buổi họp tất niên. 21 lần họp, có điều đã quên, có chuyện còn nhớ, cứ ghi lại đây.
             Lần họp mặt thứ 1 tổ chức ngày 20 - 1- 1995 (20 tháng năm Chạp Giáp Tuất). Anh em quyết định chọn nhà hàng Du lịch Tân Cảng do em Ngô Thị Thanh Thủy làm giám đốc.

                                                THƯ MỜI
        Nhóm Cựu giáo viên và Học sinh trường Trung học Kiến Hòa kính mời:
        ………………………………………………………………………….
            Đến dự buổi họp mặt tại Nhà hàng Du lịch Tân Cảng (dưới chân cầu                                                  Sài Gòn, bên trái) vào lúc 17 giờ ngày 20 tháng Chạp Tết (tức ngày                                                                 20-1-1995)
            Mong các bạn dự họp đông đủ.
                                    TP. Hồ Chí Minh, ngày 5 tháng 12 năm 1994.
                                                TM. Nhóm:
             Nguyễn Trung Hiếu               ĐT 352959 (giờ làm việc)                                                                                    Huỳnh Tấn Kim Khánh   ĐT 392101                                                                                                                   Tam Nhiều                          ĐT 253352                                                                                                                   Trần Thanh Sao                  ĐT 941887
   Phần đóng góp: 30000Đ             
  
                                          GHI NHẬN BUỔI HỌP MẶT
                CỰU GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH TRUNG HỌC KIẾN HÒA                                           
              Ngày 20-1-1995, một số cựu giáo viên và học sinh Trung học Kiến Hòa họp mặt tất niên tại Nhà hàng Du lịch Tân Cảng và thống nhất các điểm sau đây :
1.      Thắt chặt mối quan hệ  thân hữu, tương trợ về mọi mặt giữa các anh chị em.
2.      Thành  lập một số học bổng để hỗ trợ học tập, phát triển tài năng cho con em trong nhóm và trợ giúp trẻ mồ côi tại tỉnh nhà.
3.      Vận động anh chị em đóng góp phương tiện để thực hiện hai điểm trên.
4.      Ngày họp mặt hằng năm:
-Tại Sài Gòn : ngày 01-7 (ngày sinh của Nguyễn Đình Chiểu) – sau đổi lại từ 10 đến 20 tháng Chạp.
-Tại Bến Tre: ngày 28-12 (giỗ cô Trần Thị Sinh).
      5.  Liên lạc tạm thời:
                 - Tại Sài Gòn :
  * Cựu giáo viên :
                     + Nguyễn Trung Hiếu, 184 Nguyễn Chí Thanh, Q.10, ĐT 352959 (giờ làm việc)
+ Huỳnh Tấn Kim Khánh, ĐT 392101 (ngoài giờ làm việc)
  *Cựu học sinh:
     +Phan Nhựt Linh,196 Pasteur, Q.1, ĐT 295890 (giờ làm việc)
+ Dương Thành Tâm, ĐT 751606 (ngoài giờ làm việc).

-         Tại Bến Tre:
+ Lê Văn Hoàng  ĐT: 017522135 (giờ làm việc), 017521015 (ngoài giờ làm việc).

 Tiếp theo là danh sách 70 thành viên gồm 25 thầy cô ngụ tại Bến Tre, 23 thầy cô ngụ tại Sài Gòn và 22 học sinh - buổi họp này gồm 54/70 thành viên có mặt.
 Gặp nhau, mừng vui đến ứa nước mắt. Từ 1975 đến 1995 – hai mươi năm xa cách, quãng thời gian không hề ngắn của một đời người. Bên bờ sông Sài Gòn, hai dãy bàn xếp hình chữ U, từng dáng hình thân thương ngồi kế tiếp nhau. Mặt sông lấp loáng ánh đèn, những làn gió mát nhè nhẹ rồi lành lạnh về khuya dường như chưa làm dịu độ nồng nàn của tâm tình. Những ly bia thì mau cạn nhưng các đĩa thức ăn thì chưa vơi, vẫn trò chuyện, vẫn tâm sự. Không lẫn vào đâu là giọng hùng hồn của Huỳnh Minh Đức, lời lẽ chậm rãi của Tam Nhiều, giọng sôi nổi của Trần Quang Mân, lời nhiệt tình của Trần Thanh Sao cùng một số cựu học sinh. Các bạn bàn bạc, tìm cách phát triển Nhóm Cựu giáo viên – Học sinh Trung học Kiến Hòa cho lớn hơn, hoạt động mạnh hơn, thầy trò Bến Tre từ muôn nơi sẽ quy tụ đầy đủ hơn.

 Lần họp mặt thứ 2  ngày 8-2-1996 nhằm ngày 20 tháng Chạp năm Ất Hợi, cũng được tổ chức tại Nhà hàng Du lịch Tân Cảng với 80 thành viên tham dự. Phiếu chi còn giữ như sau.

Phiếu chi
- Tiệc nhà hàng                      :                       2.624.000 đ
- Bồi dưỡng phục vụ             :                            56.000 đ
- Bồi dưỡng nhạc công        :                            30.000 đ
                                                                   ____________
                                                                       2.710.000 đ
 Trả nhà hàng                          :                      2.210.000 đ
                                                                   ___________
              Còn thiếu:                                                       500.000đ
( Số tiền 500.000 đ còn thiếu thì em Ngô Thị Thanh Thủy biếu luôn, kể như phần  đóng góp của Thủy).

 Lần họp này đông vui hơn. Có thêm một số anh chị giáo viên tham dự, sau trở thành những thành viên nòng cốt trong ban liên lạc. Đó là chị Nguyễn Thị Lan, anh Đỗ Quang Hạnh,…
 Giữa lúc Tam Nhiều lia máy video, ông xã của em Kim Vững chụp ảnh liên tục, thì Trần Thanh Sao bắt giọng hò lơ “Yêu em anh biết để đâu – Để đầu xe lửa lâu lâu bóp còi”, Nguyễn Phong Cảnh thì “…Chúc cô chúc cậu giàu sang, giàu sang giàu sang phú quý… Trên đầu cậu xức dầu thơm, dầu thơm…” Riêng Nguyễn Cao Kiêm say sưa kể thiên tình sử của mình: “Bóng dáng yêu kiều tha thướt của cô giáo mới về trường vừa xuất hiện, tôi bị hút hồn ngay lập tức và tự nhủ lòng: “Phải cưới cho được cô ấy. Giả dụ cô ấy đã có người yêu, mình sẽ kiên trì… Nếu đã có chồng, hãy đợi đến khi chồng cô ấy mất, mình sẽ cưới cho bằng được cô ấy.” (là cô Chiếu Trinh đó!).

Lần họp mặt thứ 3 và những lần tiếp theo lần lượt tổ chức tại nhà hàng Phong Lan, ba kỳ ở Thorakao, rồi Câu lạc bộ Lan Anh, Nhà Văn hóa Quận 5, Quận 10… Đến lần thứ 16 trở đi là tại hội quán Nhường Trà.
“Trải qua hai cuộc họp mặt tất niên trong khuôn viên nhà hàng nhỏ hẹp ở Quận 10 không mấy ấn tượng, thầy trò trường ta bắt đầu một chuỗi hội ngộ mới ở quán chay Nhường Trà (đường Nguyễn Đình Chiểu – TP. Bến Tre) là cơ ngơi của một tấm lòng sâu nặng với thầy bạn trường ta. Qua mấy năm họp mặt ở Nhường Trà vừa rồi, mong rằng nơi đó đã trở thành hội quán lâu dài của thầy trò trường ta. Nhường Trà chỉ cách ngôi trường xưa bên hồ Chung Thủy một con đường ngắn ngủi: đi bộ qua ngã tư Quốc Tế rồi qua khỏi cầu Cá Lóc một đỗi là tới nơi… Từ Nhường Trà hay nói láy là Nhà Trường cũng hàm ý từ đó thầy trò ta đã qua thời “10 năm tình lận đận” với những cuộc họp xa: từ trưa phải đi, đến nửa đêm phải về... Và khi về đến nhà …với giấc ngủ muộn màng, đọng đầy kỷ niệm rất đông vui, ngọt ngào…”
                                              (Hình dung những cuộc họp mặt ngần ấy năm.
        S. Thống. Hồ Chung Thủy, Tập 1, Xuân Quý Tỵ 2013. NXB Hội Nhà văn, t.7)
Suốt 21 năm, tôi cứ bị các bạn đồng nghiệp “ra lệnh” và các em trong Ban Liên lạc “chỉ định”  đọc lời khai mạc. Nói thì dở mà từ chối lại không được. Xin trích lại vài lần phát biểu.

Lần họp mặt thứ 10  (2004)
“…Người xưa gặp nhau chỉ cần:
                                Cầm tay hỏi hết xa gần,
               Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can.
                                                   ( Nguyễn Khuyến)
“Cầm tay biểu hiện tình thân thiết. Hỏi hết xa gần là muốn biết nhiều việc, chuyện bản thân, chuyện gia đình của bạn. Đây là cử chỉ biểu lộ bên ngoài. Còn mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can để an tâm là tuổi bạn tuy khá cao nhưng tinh thần vẫn khang kiện. Đây là tâm ý tha thiết bên trong. Chúng ta hôm nay cũng không khác người xưa mấy. Suốt cả năm dài, chúng ta mong mỏi gặp nhau để chuyện trò. Đặc biệt, để tưởng niệm những người đã mất. (Hai tuần trước, chúng ta vừa tổ chức – theo lệ thường từ 10 năm rồi – lễ giỗ cho mấy mươi thầy cô đã quá cố). Gặp nhau thì con đường như ngắn lại, thời gian trôi thật nhanh mà tâm sự ban bè như vô cùng vô tận... Con những người bạn ở xa, ít có dịp hội ngộ để chung vui, chia sẻ tâm tình thì tuy xa mặt vẫn không cách lòng, vài dòng e-mail, một cú điện thoại, cánh thư ngắn thăm hỏi nhau đã đủ ấm lòng nhau.
            ……
            “Còn các em học sinh, mấy mươi năm rồi, thầy cô luôn cảm nhận những tình cảm đáng trân trọng ở các em là lòng quý trọng thầy cô, yêu mến bạn bè, luyến lưu trường lớp…như tâm tình của một em học trò lớp đệ nhứt A3 qua mấy dòng thơ chân chất đến não lòng trong báo xuân nhà trường năm 1970:
                        Rồi phải có một ngày từ giã
                        Thầy nầy, bạn nầy, hàng ghế nầy ấp ủ, dìu dắt lớp đi sau
                        Nghẹn ngào những  giọt nước mắt rơi trên má xuống bờ môi mằn mặn
                        Các bạn hãy thương nhau rồi cho nhau nhiều kỷ niệm
                        Hãy vuốt ve bảng đen, vách tường vôi hay đi dạo ở sân trường
                        Để nhớ từng gốc cây có hoa vàng thẫm hay có sắc hồng
                        Hãy kính yêu thầy thêm chút nữa                                                      
                      Để mai nầy mãi mãi sẽ xa nhau…”
                                                                     (Quý – IA3)

Lần họp mặt thứ 19  (2013)
         “Hôm nay, chúng ta vui mừng họp mặt năm mới Quý Tỵ đầy niềm vui. Đã mười chín năm qua kể từ khi thành lập (1994), Nhóm Cựu Giáo viên – Học sinh Trung học Kiến Hòa vẫn họp mặt đều đặn hằng năm vào một ngày giữa tháng Chạp để cùng ôn lại những kỷ niệm ngọt ngào dưới mái trường xưa với bao nụ cười rạng rỡ xen lẫn những giọt nước mắt yêu thương.
         “Kỷ niệm thì vẫn nguyên vẹn cho dù chừng như nửa đời người đã trôi qua, từ ngày các em còn cắp sách đến trường Trung học Kiến Hòa ở những năm 60, 70 của thế kỷ trước. Từng hình ảnh của ngày xưa lần lượt hiện về trong tâm tưởng…Giờ tan học, áo trắng học trò tràn ngập cổng trường như đàn bướm lượn quanh hồ Chung Thủy. Những chàng trai ôm ấp mộng tương lai, những cô gái xỏa mái tóc dài, mắt môi không trang điểm…Ôi bao thiên thần thuần khiết! Dù ngày ấy mộng mơ của tuổi trẻ có võ vàng ít nhiều giữa quê hương bom rơi đạn nổ, các em vẫn đi tìm một màu xanh hy vọng, hy vọng quê nhà im tiếng súng, đất nước lại thanh bình. Và cái đáng trân trọng chính là tình yêu gia đình, lòng yêu quý thầy cô, thương mến bạn bè, luyến lưu ngôi trường của một thời hoa niên thân ái…
           “Còn những giọt nước mắt, bao nụ cười sum họp thì không thể phai nhòa.Vẫn nhớ như in buổi họp tối năm nào tại Nhà hàng Du lịch Tân Cảng, cô giáo Trần Thị Thủy Anh – người học trò cũ – đã ôm chầm thầy Phan Hồng Lạc mà nức nở: “Hai mươi năm cách biệt rồi, thầy ơi!” Vẫn nhớ năm 2008, đêm lửa trại Bình Châu quây quần hàng trăm thầy trò…, bao giọt nước mắt mừng mừng tủi tủi – giờ ở lứa tuổi 50 – dâng trào khi gặp lại thầy Trần Kim Quế sau mấy chục năm xa cách. Cảm động biết bao, gần cuối bữa ăn tối, thầy Trần Thanh Sao cùng vài học trò bị lỡ đường đến trễ. Càng cảm động hơn khi biết thầy Trương Thành Nghĩa đã đón mấy chuyến xe mới đến kịp. Rồi ánh lửa trại bừng lên theo từng lời hô của thầy Đỗ Quang Hạnh: “Trời ta, ta đứng!”, “Đất ta, ta ngồi!” cùng lời ca tiếng hát điệu hò, bao trò chơi do thầy Tam Nhiều, thầy Quế và một số bạn hướng dẫn, đã làm sống lại một thời đã xa…thật hồn nhiên, thật hạnh phúc.Vẫn nhớ những chuyến đi do các em Huỳnh Kỳ Trân, Đặng Thị Kim Liêng tổ chức, những đợt từ thiện do các em Lương Văn Tô My, Võ Thị Kim Vững cùng một số bạn bè lo liệu.
“Còn có người tận phương xa luôn thiết tha nhắn gọi:
            Hỡi bạn bè mái tóc bạc nhiều chưa
            Xin chầm chậm chờ ngày ta gặp lại.
                                    (Thầy Huỳnh Ngọc Diêu)
“Mười chín năm rồi, “kể làm sao xiết muôn vàn” kỷ niệm đã hằng sâu trong tâm khảm, càng nhớ, nhiều càng hiểu, càng yêu hơn. “Cho nên dù muộn cũng phải đến với nhau”. Chúng ta hãy sum vầy với thầy cô, với bạn bè, để chúc phúc cho mỗi thầy cô thân yêu, mỗi bạn bè thân mến trong dịp Tết đến xuân về.”

Lần họp mặt thứ 20  (2014)
“Buổi họp mặt hôm nay kỷ niệm đúng 20 năm hoạt động của Ban Liên lạc Cựu giáo viên – Học sinh Trung học Kiến Hòa. 1994 đến 2014, một thời đủ đầy hồi tưởng cho thầy trò chúng ta.
“Trong dòng chảy của đời người ngắn ngủi, chúng tôi cảm nhận sâu sắc một nhu cầu tình cảm không thể thiếu được, đó là tình bạn bè, đồng nghiệp. Và suốt cả năm dài các anh chị em lớn tuổi chúng ta mong mỏi gặp mặt nhau để chuyện trò. Từ những mẫu chuyện của đời sống đến bao điều trải qua, bao khúc quanh của thời cuộc, những vất vả lo toan của cuộc sống, cả những suy nghiệm, ước mong…Để cùng nhận ra rằng tình bạn ngày càng bền chặt, nồng thắm khôn nguôi:
Lũ chúng mình như hoa bèo phiêu dạt       
Vẫn mơ về con bến nước ngày xưa
Dẫu cuộc đời sớm nắng với chiều mưa
Những kỷ niệm như vẫn còn nguyên mới.
                                                    (Thầy Huỳnh Ngọc Diêu)
………….
“Các em học sinh thân yêu, còn nhớ như in trong mấy năm đầu hình thành Nhóm Giáo viên – Học sinh Trung học Kiến Hòa, cứ gần đến cuối năm cũ, các em đều rộn ràng chuẩn bị mọi thứ, báo tin cho thầy cô, bạn bè và đón mừng các bạn từ Bến Tre lên. Để tay bắt mặt mừng, chuyện trò rôm rả trong một tối ngắn ngủi, rồi lại chia tay với bao nỗi lưu luyến, bồi hồi. Ngoài việc tổ chức tất niên suốt 20 năm liên tục, các em còn lo cúng giỗ những thầy cô quá vãng, thăm nom các thầy cô đau yếu, tổ chức các buổi du ngoạn, hội trại. Đặc biệt, các em còn tổ chức bao đợt cấp phát học bổng cho học sinh, nhiều chuyến cứu trợ, từ thiện tại quê nhà…
 “Giờ đây, thầy cô thật vui khi nhìn các học sinh bé nhỏ của mình ngày xưa đã thực sự trưởng thành và vững vàng trên mọi nẻo đường của cuộc sống. Đôi khi còn cảm nhận thật rõ: học trò của mình giờ trở thành niềm tin, là chỗ dựa tinh thần cho thầy cô. Chính các em đã hoàn thành những ước mơ, hoài bão cả một đời của thầy cô…
  “Thưa các bạn đồng nghiệp và các học sinh thân yêu.
  “Thi hào Tagore đã từng viết: Hãy rót đầy ly cho nhau nhưng đừng uống chung một ly. Nhưng hôm nay xin đề nghị: “Hãy rót đầy ly và cùng uống chung một ly”. Đây chính là ly rượu ấm nồng hương vị ngọt ngào tình cảm thầy trò trong buổi họp mặt hôm nay.
  “Chúc tất cả đón nhận vô vàn niềm vui và hạnh phúc trong năm mới.”….
               Loạt bài Trường xưa…thương nhớ  xin tạm dừng. Những đoản văn với các tiêu đề Về trường, Năm dạy học đầu tiên, Một lễ phát thưởng còn nhớ mãi, Mùa thi đáng quên, “Thư tình học trò” và “Thì thầm trong đêm’’, “Gió qua sông”, Nghĩa nặng tình sâu, Thương nhớ trường xưa với bao hình ảnh, hồi ức khi đứt khi nối, được chuyển tải bằng tâm tình sâu nặng, chân thật của người viết. Nhưng kỷ niệm về ngôi trường xưa thân yêu không chỉ có thế thôi. Mong được đọc bao tâm sự ngọt ngào, tha thiết khác sẽ lần lượt hiện lên những trang blog của hội quán Nhường Trà….

                                                                                                                             

14/10/2015


            Cảm tưởng sau khi đọc bài “Trường xưa…thương nhớ”
            Lê Ngọc Sện

            Tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần bài của thầy Huỳnh Tấn Kim Khánh “Trường xưa…thương nhớ” đăng trên hoiquannhuongtra.blogspote.com.
            Để nhớ lại một thời trường xưa cảnh cũ, để hiểu biết thêm hoạt động của các anh chị đồng nghiệp và các em học sinh.

            Tôi bắt đầu đến Trường Trung học công lập Kiến Hòa từ năm học 1970-1971. Thời kỳ này đã có nhiều anh chị chuyển công tác hoặc về quê(anh Hai Trần Thanh Sao, thầy Huỳnh Phú Hiệp, thầy Nguyễn Kim Hoàn, thầy Đoàn Văn Phi Long, thầy Lâm Vĩnh Thế, thầy Phạm Tấn Phước, thầy Nguyễn Văn On, thầy Tam Nhiều, cô Lê Thị Tư, cô Sâm, cô Đoàn…); và cũng lần lượt nhiều lứa giáo sư trẻ gia nhập vào đội ngũ nhà trường.
            Chúng tôi là đàn em của anh Kim Khánh, qua bài viết của anh đã giúp chúng tôi biết được nhiều điều của trường lớp xảy ra ở thời gian trước; và nhớ lại cũng như hiểu ra một số chuyện mà bản thân chưa tường tận…
            Ví dụ như việc “ Người đàn anh khả kính” đã được “tấn phong” như thế nào.
            Hoặc chuyện bản thân tôi đã gặp: Do chơi rất thân tình với thầy Huỳnh Thành Công (dạy Pháp văn) nên tôi hay bị anh Công nắm chặt cổ tay của tôi, thử xem tôi có vùng vẫy thoát nổi hay không. Đau quá, nhiều khi tôi phải khen nịnh: “Ôi, nội công thâm hậu quá, em chịu thua!”. Một anh bạn thấy vậy, cho biết: “Ổng đang tập võ thường xuyên đấy!”
            Tìm hiểu thêm mới biết anh Công là đệ tử của ông Hai Xộp (thầy dạy võ nổi tiếng thời đó). Tôi hỏi anh Công sao đi học võ muộn vậy? Anh Công cười cười: “Để phòng thân mầy ơi. Tụi nó đánh, mình phải đở được rồi mới chạy được chớ!”.
            Thì ra sự việc khởi nguồn từ “ Mùa thi đáng quên” như anh Kim Khánh kể. Sau đó đúng là đã có vài ngày anh bắt đầu học võ cổ truyền!
            Hoặc chuyện về anh Dương Văn Hai: Đôi lúc tôi tự coi mình như một “truyền nhân” của anh Hai, cứ ngỡ anh về từ trường Võ bị Đà Lạt thì lúc tốt nghiệp Đại học Sư phạm là anh nhận nhiệm sở là giáo sư văn hóa ở đó chứ; đâu biết anh Hai cũng về Trung học Kiến Hòa một lượt với anh Kim Khánh!
            Như vậy đó, biết bao điều đã được giải mã, biết ao kỷ niệm đã ùa về…, và còn biết bao điều thú vị sẽ được đọc, cần phải đọc kỹ, soi kỹ trong đó để thấy mình, thấy học trò thời thanh xuân hoa mộng.
            Cảm ơn anh Kim Khánh nhiều lắm.

            Rất mong sẽ được đọc dài dài các bài viết của các anh, chị, bạn đồng nghiệp, của các em học sinh và phụ huynh học sinh để mãi mãi nhớ về một thời ta đã sống.

Thầy Lê Ngọc Sện.

10/10/2015

                                     RƯỢU ÊTYLIC
Đoàn Ngọc Diệp


Rượu êtylic hay êtanol có công thức hóa học là C2H5-OH hay CH3-CH2-OH. Đây là chất lỏng không màu, mùi thơm. Nó rất có ích trong đời sống và khoa học. Vì nó có mùi thơm nên được sử dụng rất nhiều để chế biến các loại đồ uống. Các loại đồ uống có êtanol được con người ưa chuộng, nhứt là giới trẻ. Các đồ uống nầy có rất nhiều tác hại. Trong bài viết nầy, tôi chỉ đề cập đến một tác hại mà báo chí không đề cập tới.
Năm học 1964-1965, tôi học năm cuối cùng ở Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn. Theo quy định của Bộ Giáo dục thời đó, sinh viên sắp tốt nghiệp phải học môn Vệ sinh để làm hành trang cho cuộc sống về sau. Phụ trách môn học là thầy L. Thầy là bác sĩ đang công tác tại một bịnh viện của thành phố. Thầy giảng dạy một số bịnh thường gặp và cách phòng bịnh. Thầy cũng giảng dạy về tác hại của việc uống rượu. Thầy nói: “Sau khi người đàn ông uống rượu chừng 5 phút, rượu đã có mặt trong tinh dịch. Tinh trùng sống trong tinh dịch bị nhiễm rượu, nếu được thụ thai, nó sẽ cho ra đời đứa trẻ có bộ óc không phát triển”. Lúc đó, tôi nghĩ rằng thầy phải nói như vậy vì một thầy giáo uống nhiều rượu sẽ có tác dụng không tốt đối với học sinh.
Sau nầy, khi lớn tuổi, tôi thấy được nhiều điều tiêu cực do rượu mang lại. Vì thế, tôi ra sức tìm hiểu về tác hại của việc uống rượu.
Tôi theo dõi các đứa trẻ mà tôi hiểu rõ về gia đình của chúng. Tôi nhận thấy các đứa trẻ thông minh, học giỏi xuất thân từ các gia đình có cha và ông không uống rượu, hoặc uống rượu rất ít và không thường xuyên. Trái lại, các đứa trẻ học kém, không có ý chí phấn đấu vươn lên xuất thân từ gia đình có cha uống rượu thường xuyên. Như vậy, lời giảng dạy của thầy L. là hoàn toàn chính xác.

Để kết thúc bài viết nầy, tôi đề nghị các bạn trẻ nên tự kềm chế mình khi trước mặt mình là một ly rượu thơm tho, hấp dẫn.

                             DÒNG SÔNG SẮP CẠN

          Khoe Nguyễn



         Mỗi lần trầm tư về thân phận, cuộc sống và những bước kế tiếp, tôi thấy lòng se lại. Tôi xin ghi lại những ý nghĩ thô thiển của một người lớn tuổi…
         Ngôi trường Kiến Hoà có lịch sử phát triển ví như dòng sông Bến Tre, trong đó thầy cô như những người đưa đò, các em học sinh như những người qua đò.
         Thầy cô cho dù có hạn chế về năng lực, phong cách nhưng trong quá trình hướng dẫn, truyền đạt kiến thức, kỹ năng luôn cố gắng trau dồi kiến thức, bản lãnh để tạo cho mình sự tự tin, vững bước lèo lái con đò an toàn tiến bước. Cho dù dòng sông gặp thời tiết bất lợi đến đâu, thầy và trò cũng cố gắng vượt qua.
           Những thành quả mà thầy và trò mang lại xem như phù sa của dòng sông bồi đắp cho đời, chất lượng phù sa mà dòng sông Kiến Hoà mang lại có lẽ là tình thầy trò, tâm huyết cốt lõi là cố gắng đưa đàn em luôn tiến vững về phía trước. Đàn em luôn có tư cách phát triển, quan trọng hơn hết là phải luôn phát triển hơn thầy, cô về mọi mặt, qua hai câu đối mà thầy Nguyễn Đăng Phu nêu ra:
             Hàm dưỡng nhân luân minh tuấn đức
             Hoằng khai khoa học tác tân dân.
            Cái hay của thầy trò Kiến Hoà thực hiện là luôn cố gắng tìm mọi cách để gắn bó, gần gũi nhau hơn, kết hợp những quan hệ thật tốt mà thầy và trò có được. Hơn thế nữa, những ánh mắt, nụ cười trao đổi lúc gặp nhau không thể diễn tả hết bằng lời, chỉ thể hiện bằng những cử chỉ trìu mến, liên tưởng lại những kỷ niệm trong những chuyến du khảo, cắm trại, trại hè… thời xa xưa mà lòng tràn dâng trong tiếng hát, lời ca từ nhóm Hương Sống, Tổ Ong, Cỏ May của một thời để nhớ.
              Người Bến Tre có tâm huyết mộc mạc, đơn giản và tự nhủ mình cố gắng trang bị cho có chất của người Bến Tre (chơn chất, mộc mạc, ít tranh luận, luôn trao đổi cho nhau để cùng tiến bộ và vững bước), có được tâm hồn của người Việt, có được ý chí của cha ông để lại… nên phải luôn cố gắng làm cái gì đó, dù nhỏ nhoi, dù không bằng ai nhưng ít ra mình tạm hài lòng.
              Thành quả mà tập thể thầy và trò Kiến Hoà cố gắng đạt và duy trì là tạo yếu tố để đàn em đạt thành tích về mọi mặt luôn cao hơn thế hệ trước, điều cốt lõi là ta cố gắng luôn yêu thương và tôn trọng lẫn nhau.
               Dòng sông Kiến Hoà có tồn tại và mãi mang phù sa bồi đắp cho đời, luôn xứng đáng dấu ấn đẹp trong tâm trí chúng ta; hiện tại chúng ta cố gắng hướng vào nhau, cùng nhau thực hiện cái gì đó để luôn thấy ấm lòng mỗi khi nhắc đến.
               Thầy Trần Kim Quế, thầy Nguyễn Duy Oanh, cô Kiêm Quyên… là những hình ảnh đáng quý trọng đối với mọi người.
                Em Tô My, Kỳ Trân, Kim Vững… là những người tiếp tục vun xới cho dòng sông còn chảy mãi.
                Chúng tôi hy vọng với tâm huyết, trí thông minh, óc sáng tạo sẵn có trong mỗi người chúng ta cùng hoà với dòng máu sôi sục tạo thành quả mới của các em góp phần khơi dậy dòng sông.
                Đời người sẽ qua đi nhưng thành quả đạt được để dòng sông tồn tại chắc chắn sẽ trường tồn.

                 Hy vọng Trường Trung học Kiến Hoà là dấu ấn đậm nét trong tri thức và tâm hồn mọi người chúng ta.

04/10/2015


              TRƯỜNG XƯA … THƯƠNG NHỚ                                                                                                      HUỲNH  TẤN KIM KHÁNH

         (Tiếp theo)
          6. Nghĩa nặng tình sâu
            Không ít bạn bè nhận xét hầu như không có trường nào mà đồng nghiệp thương yêu nhau bằng anh chị em của Trung học Kiến Hòa. Tình cảm gắn bó này có thể lý giải bằng nhiều cách. Thứ nhất, chúng tôi thuộc thế hệ trưởng thành sau năm 1954, tiếp thu một nền học vấn nhân bản, dân tộc. Đạo đức thấm nhuần từ nền nếp gia đình, từ cách sống của ông bà cha mẹ, học hành thì chuyên cần để sau này “ nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, ra đời luôn luôn hướng đến sự hoàn thiện nhân cách. Chúng tôi dường như có nếp suy tư giống nhau và có cùng cách giải quyết những vấn đề trong cuộc sống đương thời.
            Thứ hai, chúng tôi có chung hoài bão giáo dục: quyết tâm đào tạo con em thành người hữu dụng – từ những thiếu niên vườn ruộng nghèo trở thành người có tri thức, có năng lực để xây dựng đất nước, quê hương từ lâu vốn hứng chịu đói nghèo, lạc hậu.
            Thứ ba là hoàn cảnh chiến tranh. Hôm nay vào trường đông đủ, nói cười vui vẻ, ngày mai có thể một đồng nghiệp vắng bóng bởi thương tật, thậm chí vĩnh viễn đi xa vì bom đạn. Cho nên mọi tị hiềm, đố kỵ, mọi so đo, thậm chí ganh đua đều trở nên vô nghĩa . Người ta chỉ muốn ôm nhau để an ủi, cảm thông mọi thứ trong cuộc sống, rộng mở tâm hồn, nhìn người bao dung, nhìn đời phóng khoáng. Giữa chúng tôi là như thế, chỉ còn một tình cảm mến yêu… Vài người bạn sau đây tiêu biểu cho cách sống cao đẹp đó. Và mỗi người cũng có nét độc đáo đáng yêu riêng.
             Anh Bùi Văn Trọng là người anh cả được chúng tôi đặc biệt yêu mến. Mỗi tuần anh về Bến Tre dạy học, ở nhà bà nhạc, cũng gần nhà tôi thuê. Tại Sài Gòn, anh chị ở hẻm Ngô Quyền, tôi thường ghé chơi. Mùa hè 1973, tôi đổi về Sài Gòn, năm sau mua được căn nhà trả góp của Tổng cục gia cư. Nhà thô, phải lót gạch, lắp cửa, trang bị nội thất nên hụt tiền. Có dịp cà phê tâm sự, anh bảo: “Anh giúp chú em khoản tiền cửa nẻo đó”. Tôi nhớ số tiền tương đương ba tháng lương lúc ấy. “ – Trả anh bằng cách nào?” “ – Anh còn một chân hụi chết,  chú cứ đóng đến hết là vừa đủ.” Đến tháng tư năm 1975, anh chị sang Mỹ, tôi không thể tiếp tục trả. Hai mươi năm sau, anh từ Mỹ về, tôi nhắc lại món tiền cũ, anh bảo: “Anh chị cho chú luôn. Trả cái gì!” Cũng lần đó, trong bữa tiệc chiêu đãi anh em tại một nhà hàng ở  Ngã sáu Chợ Lớn, anh thăm hỏi từng người. Đến tôi, anh vân vê áo chemise của tôi: “ – Vải nilfrance còn tốt, có phải áo dài tay cũ, chú cắt thành tay ngắn?” Anh thấu hiểu cảnh nghèo túng của anh em lúc ấy như vậy. Làm sao mua được quần áo mới, trong khi đồ cũ vẫn còn lành lặn? Trong lễ cầu siêu cho anh tại một ngôi chùa ở Tân Thạch năm 2013,  tôi nghẹn ngào thuật lại câu chuyện trên mà rơi nước mắt.
            Xin mượn lời chị Nguyễn Thị Lan trong điếu văn “Tiễn biệt anh Bùi Văn Trọng”:
            “… Biết rằng đời người sanh lão bệnh tử là không ai tránh khỏi, nhưng chúng em vẫn tiếc thương Anh quá đỗi, bởi vì anh là con người đặc biệt không phải riêng của chúng em mà là của mọi người. Anh vừa là cây đại thụ, vừa là ông Phước, Lộc, Thọ, vừa là vua tếu.
            “ Cây đại thụ che bóng mát cho đời, chở che an ủi giúp đỡ mảnh đời khốn khổ cơ cực…Cuộc sống bên anh là cuộc sống rộn rã tiếng cười, rộn rã niềm vui. Anh tự xưng mình là ông Phước, Lộc, Thọ; người Tàu thì thờ 3 ông, còn anh là 3 trong 1. Anh là ông Phúc, Lộc, Thọ cao trọng và quý giá… Anh còn là chiếc du thuyền êm ả trên những dòng sông quê hương đưa chúng em đi thăm mọi miền đất nước từ Bắc, Trung, Nam, khi Phú Quốc, khi Hàm Tân, khi Mũi Né, lúc Cần Giờ, Kiên Giang. Lúc nào Anh cũng vui nhìn chúng em cười đùa và lúc nào anh cũng có thể trêu đùa, chọc phá – điều bất ngờ mà mọi người không nghĩ tới – nên Anh còn được phong là vua tếu. Bên anh tràn những niềm vui hồn nhiên bất tận nhưng Anh lại là con người có chân tình sâu đậm khiến bạn bè nể phục, kính yêu. Anh về họp mặt, anh đi thì chia tay, tiệc nào cũng vui và tiệc nào anh cũng giành trả tiền. Anh bảo: được về với bạn bè họp mặt vui đùa còn quý hơn mấy thang thuốc bổ; ở nước ngoài làm sao có được và anh đã trở thành người Anh lớn trong lòng chúng em. “Anh Hai” là tiếng chúng em đã gọi anh đầy chân tình và cũng từ chân tình đó, có khi anh dạy dỗ nhắc nhở chúng em điều thiếu sót trong quan hệ xã hội. Anh sống đầy tình người, anh tôn trọng mỗi con người bằng tấm lòng từ ái, bao dung nên với Anh, ai anh đến chơi cũng được, kẻ cô đơn anh càng gần gũi mến thương.
            “Do vậy Anh là tấm gương sống cao đẹp của chúng em, chúng em thật sự sống vững vàng và hạnh phúc bên anh…”
                                                            (Hồ Chung Thủy ,Tập 2.(Kỷ yếu 20 năm                                                                             họp mặt (1994- 2014). NXB Hội nhà văn, t.51,52)

            Anh Bùi Thanh Kiên mà quý danh của anh vừa được nhắc tới là anh em giáo viên, cả học sinh đều tung hô “vua nói lái”. Ôi thôi, thao thao bất tuyệt, lái dượm hay lái dòn cũng được, lái dú hay lái dở cũng xong.  Xin kể, trong chuyến xe đêm từ Sài Gòn đến Vĩnh Long lúc 2 giờ khuya để kịp viếng tang anh Nguyễn Văn Tòng, vừa chạy ngang một bảng hiệu buôn, anh đọc to “Minh Phú” và nói phải chi lấy tên “Minh Phú Phú” thì gợi cảm hơn! Anh nói lái như tia chớp là như thế, và có viết một tài liệu nghiên cứu có giá trị khoa học ngôn ngữ về nói lái. Công phu hơn, anh đã biên soạn gần xong một từ điển Tiếng Việt.
             Anh  còn là học sinh đầu tiên của trường Trung học Kiến Hòa. Hãy nghe anh kể:
            “… Nghỉ Tết đến ngày mùng chín tháng giêng năm 1955, chúng tôi vào học lớp Đệ thất. Chúng tôi học hai buổi sáng chiều và năm học chấm dứt vào lúc nghỉ hè như các lớp khác. Mang phù hiệu bằng miếng nỉ đen có thêu ba chữ THB (tức là Trung học Bến Tre) là niềm tự hào của chúng tôi. Nhưng đám học sinh trường tư cứ chế nhạo chúng tôi là trâu heo bò.”
            (“Bộ đồng phục bà ba trắng, bước lộp cộp với đôi guốc vông”. Hồ Chung Thủy,                                           Tập 3 ( Kỷ yếu 60 năm trường Trung học Bến Tre). NXB Hội nhà văn, t.17)
           Anh lúc nào cũng nói lái, cười đùa, luôn mang lại niềm vui cho bạn bè,  chưa khi nào thấy anh giận hờn hoặc làm mất lòng ai cả. Anh nằm bệnh viện mấy lần, tôi vào thăm, anh tỏ ra lạc quan, còn an ủi ngược lại tôi nữa! Nhưng cũng thật nhạy cảm. Có lúc giãi bày tâm tình về cuộc sống, về tình người, về lẽ đời:
             “…Quyển sổ ghi đời của tôi cũng sắp sửa khép lại rồi, không biết chừng nào đây! Nhưng cái gì cái, tôi cũng vẫn lạc quan yêu đời tới phút cuối cùng của cuộc sống. Nhớ thuở nào, thầy hay cô giáo trẻ ngại ngần, ngượng ngùng nữa là khác, bước qua ngưỡng cửa vào lớp dạy ở độ tuổi đôi mươi mà giờ đây đã là người lưng còng gối mỏi. Có những anh chị đã vĩnh viễn xa đời trong lòng tiếc thương vô hạn của bạn lứa và học trò. Người còn ở lại, sống lâu chỉ làm khổ cho cái thân già vì những mối dây liên hệ tình cảm của mình với bạn bè bị mòn, đứt lần lần và người sống dai nhất sẽ mang tâm thức của tên tử tù bị lưu đày vào vùng đất xa lạ - nơi mà không ai biết mình là ai!
            “Thôi, đời là như vậy, rồi đây mọi thứ chỉ còn lại trong ký ức. Nhưng, đã sống thì sống cho đàng hoàng, nghĩa là sức khỏe phải tốt, theo đúng nghĩa chữ “thọ nhi khang” (tạm dịch: sống dai như đỉa nhưng còn đủ xí quách). Đừng sống kiểu chợt buồn chợt vui, “thương thương nhớ nhớ, mơ mơ hồ hồ”. Cũng rất có thể lúc ngồi một mình lại bỗng dưng nhớ lại một hình bóng thân thương nào đó trong quá khứ nên bất giác nhoẻn miệng cười, nhưng khổ nỗi, nụ cười nở chưa trọn vẹn thì hình bóng đó lại vụt phai mờ ngay trong tâm tưởng vì lẽ thần trí của mình đã khi nhớ khi quên.”
                                 ( “Vui buồn ngày cũ ở nhóm dạy giờ”. Hồ Chung Thủy, Tập 2, t. 106)
                       
            Chị Nguyễn Thị Lan là người mà tôi một lòng kính phục, một dạ mến thương. Đó là một phụ nữ dễ xúc động, hay rơi lệ. Cứ mỗi lần chị phát biểu tôi đều lo. Trong lễ tang của anh Phan Hữu Nghĩa, của chị Lê Thị Lư, cô Phạm Thị Hạnh…, tôi đều đứng bên canh chừng, sợ chị xúc động quá rồi ngã. Lần nhắn nhủ với học trò trong kỳ họp mặt Cựu Giáo viên – Học sinh tại Nhường Trà năm 2013, tôi phải bố trí hai “cận vệ”: bà xã của Tô My đứng bên trái, con gái của Tô My bên mặt chị, cho chắc ăn.
            Có lẽ khi từ Cần Giuộc theo chồng – anh Lê Văn Trọng – về Bến Tre thì nhà trường, đồng nghiệp và học trò trở thành lẽ sống, niềm vui của đời chị.
            “Anh thật là kì lạ!” - tôi muốn mượn lời của Lev Tolstoy nhận xét Maxime Gorki. Chuyện kể, từ nhỏ Gorki phải giúp việc một gia đình tư sản. Công tử nhà đó làm vỡ chiếc ấm quý, đổ lỗi và Gorki phải một trận đòn dữ, vào nhà thương bác sĩ gắp ra 40 mảnh roi ghim vào da thịt. Sau Cách mạng tháng Mười năm 1917, ông công tử ngày trước biết Gorki hiện nay là Chủ tịch Hội Nhà văn Xô Viết, được Lénine quý trọng, nên tìm đến xin được trả quyền công dân, nhờ Gorki khi đi Mỹ mua giùm một thước logarith, một radio bảy đèn,  loại  tốt nhất vào thời đó… . Gorki đã thực hiện đầy đủ các yêu cầu của ông ta!
            Chị thật kì lạ, vì không thấy chị giận ai, trả đũa ai bao giờ. Với học trò, chị nhớ rành rõ cá tính mỗi em, từng chuyện vui buồn giữa cô trò. Học trò lỡ lời, chị chỉ tủi thân muốn khóc. Ơn với học trò thì không kể, bất cầu báo. Với đồng nghiệp, tình như bát nước đầy. Bạn nào làm phật ý, chị hờn mát chút thôi. Có lần chị điện thoại hỏi thăm chân đau của người bạn, chị nói tôi chỉ hỏi cái chân chứ không thèm hỏi bạn nha! Chị luôn nhắc nhớ sức khỏe từng người và nhiều phen tận tụy chăm sóc bạn (chị Lư vợ anh Lạc, chị Tam Nhiều…) cho đến phút họ lâm chung, rồi viết và đọc những bài tưởng niệm trong nước mắt. Có lẽ chị đã đọc điếu văn tiễn đưa hơn mưòi bạn rồi, từ anh Nguyễn Hữu Khiêm, chị Nguyễn Thị Kiêm Quyên… đến anh Nguyễn Trung Hiếu.
            Nhìn dáng vóc nhỏ nhắn của người chị đã 80 tuổi bước cao thấp từng cung đường phố thị Sài Gòn đầy bụi để viếng thăm bao người bạn ốm đau, tôi thật xót xa. Chị đi bằng xe ôm, xe lam, xe buýt hằng bao cây số, bất chấp nắng mưa gió bụi… Tôi nhiều lần chở chị đi thăm bạn bè, khi đưa về, vừa đến Ngã tư Bảy Hiền, chị xuống xe tự đón đi tiếp chuyến xe lam, cương quyết không cho tôi đưa chị về tận nhà ở Lũy Bán Bích, vì sợ tôi vất vả! Lúc nào cũng lo cho mọi người, không lúc nào lo cho bản thân. Bệnh thì không cho ai hay, sợ phiền bạn bè đến thăm. Những mỹ từ “cao quý”, “ tuyệt vời” cũng chưa đủ ý nghĩa khi nói về chị. Thật không thể giải thích được (inexplicable). Có thể đây là một dạng tình cảm đặc biệt, tình hòa vào nghĩa. Tình này biết lấy gì đo? Nghĩa này biết lấy gì cân? Tôi chợt nghĩ đời sống của ta vốn hữu hạn, nghĩa tình mới vô biên…
           
            Anh Huỳnh Minh Đức vừa là bạn, vừa là đồng nghiệp, lớn hơn tôi đến tám tuổi. Sinh năm 1934, năm nay 81 tuổi. Thông minh, chuyên cần, học thật giỏi, kiến văn sâu rộng về Hán học và triết Đông. Anh vốn có chút “kiêu ngạo” chính đáng. Tôi từng nghe anh chê một giáo sư tiến sĩ nọ chép lại một tác phẩm bằng chữ Hán trong văn học trung đại Việt Nam mà sai đến 80 lỗi ám tả! Sách đã xuất bản của anh có giá trị học thuật cao từ văn học, triết học đến y học. Anh xứng đáng là một học giả văn triết uyên thâm, hiếm có người có thể kế thừa.
            Nhân đây tôi xin kể vài kỷ niệm thân thiết về anh. Tôi trọng anh về học vấn, anh cũng quý tôi vì chân tình. Đọc sách chữ Hán, chỗ nào chưa thông, tôi hỏi là anh tận tình giảng giải. Sau này, khi biên soạn sách, tôi mãi mãi nhớ từng lời chỉ bảo của anh, không những về ý nghĩa ngôn ngữ mà còn về giá trị tinh thần của ngôn từ nữa. Từng chữ của cổ nhân giúp ta nghiền ngẫm, tu dưỡng đạo đức và vận dụng vào cuộc sống, sao cho xứng với lời dạy của người xưa. Chẳng hạn có khi anh và tôi trao đổi về nội hàm một hào của quẻ Càn. Quẻ Càn gồm sáu hào: sơ cửu, cửu nhị, cửu tam, cửu tứ, cửu ngũ và thượng cửu. Hào cữu ngũ: Phi long tại thiên, lợi hiện đại nhân. Rồng bay và đang bay ở trên trời, ví với bậc đại nhân…
            Kỷ niệm thứ hai là chuyến phóng Honda từ Bến Tre về Sài Gòn trong Tết Mậu Thân.                                                                                                                                                                 …Thị xã Bến Tre, mùng 10 tháng Giêng vẫn âm ỉ tro than. Cả khu chợ đều tàn rụi. Nhà lồng chợ chỉ còn mấy bức vách trơ vơ, loang lỗ vết đạn. Cảnh hoang tàn trước mắt làm tim tôi quặn thắt. Đến 18 tháng Giêng, Huỳnh Minh Đức và tôi quyết về Sài Gòn vì nóng lòng tin tức gia đình. Hai anh em chất lên chiếc Honda 67 và… một chai whisky uống dở. Từ 10 giờ sáng đến 2 giờ chiều, chúng tôi cứ đứng khựng tại Ngã ba Tháp đón người từ phía Tân Thạch chạy về. Tình hình thay đổi từng giờ: tắc đường chỗ này, phải đi vòng  vườn dừa chỗ nọ, lựu đạn nổ ở đoạn kia... Thỉnh thoảng có chiếc xe lôi đưa người bị thương về bệnh viện Bến Tre. Rồi chúng tôi cũng đến được Tân Thạch. Nỗi lo lắng đã thành sự thật: không chuyến phà nào dám đi qua phía Định Tường (Tiền  Giang), chỉ có một chiếc đò máy vòng lên Chợ Lách rồi đổ dọc xuống thị xã Mỹ Tho. Gần 4 giờ chiều, chúng tôi khiêng Honda lên mui đò máy. Trải một chặng đường sông nguy hiểm giữa hai làn đạn, chúng tôi nốc mấy ly whisky để trấn áp nỗi lo sợ. Chạng vạng tối, đến được Bình Chánh. Đêm hôm đó, hỏa châu sáng rực, súng nổ vang rền: cầu An Lạc sập…Cuối cùng, chúng tôi cũng về được với gia đình…
            Đã mười năm nay, anh bị đột quỵ. Ngày ngày anh ngồi xe lăn trên thềm ngôi nhà của tổ phụ ở ngoại ô thành phố Biên Hòa, dõi mắt nhìn dòng sông Đồng Nai lặng lờ trôi… Hai lần anh em ghé thăm, dìu anh lên xe đi Bình Châu và Hồ Đắng, anh quá vui.                                                                                           
         Bây giờ chỉ còn lại riêng anh một nỗi cô đơn, một khối u sầu nguyên vẹn mười năm dài đã trôi qua và sẽ đằng đẵng bao nhiêu năm nữa!
         “Ôi phù du                                                                                                                                        Từng tuổi xuân đã già                                                                                                                                                               
Một ngày kia đến bờ                                                                                                                                            Đời người như gió qua         
                                       ……
               “ Chén rượu cay                                                                                                                                Một đời tôi uống hoài                                                                                             
                        Trả lại từng tin vui                                                               
              Cho nhân gian chờ đợi                                                                                                              Về ngồi trong những ngày
                                      Nhìn từng hôm nắng ngời
                                      Nhìn từng khi mưa bay
                                      Có những ai xa đời quay về lại
                                     Về lại nơi cuối trời
                                      Làm mây trôi…”
(Trịnh Công Sơn – Phôi pha)
                                                                                                                            (Còn tiếp).