05/11/2013

Một cảnh hưu
     Võ Văn Ngọc Hoàn



Chiếu theo luật hiện hành, sau khi chị hai của tôi qua đời trong cảnh gối chiếc, neo đơn, tôi sẽ được thừa kế 3 công vườn nhà đất hương hỏa của ông bà cha mẹ để lại, vì tôi là em trai kế duy nhất của chị, là hàng thừa kế thứ nhứt, tính từ đời tôi trở về sau… !
Chị tôi có để lại di chúc cho tôi từ những ngày sức lực của chị tàn tạ, khi không còn cưỡng chống nổi căn bệnh ung thư vú hiểm nghèo, đã di căn sang nhiều bộ phận khác… Chị tôi còn nói lời trăng trối: “Biết rằng em sẽ phải sống cảnh hai quê với mảnh vườn đất hương hỏa này và căn nhà ở thành phố của vợ chồng em... Nhưng biết làm sao được… Em phải về đây mà giữ gìn nó như chị đã gìn giữ nó bằng cả cuộc đời của chị… Đừng làm chị thất vọng về em… Mà em cũng sắp sửa về hưu rồi, ở mãi thành phố đô hội ồn ào náo nhiệt mà chi… Đừng cãi chị…”.
Tất nhiên tôi phải nghe lời chị, dù vợ con sẽ không ưng lắm cái cảnh hưu đúng nghĩa “về vườn” của tôi… Cái lý của tôi để làm yên lòng vợ con là: “Thử nghĩ mà xem, trong hoàn cảnh sống hiện nay, mấy ai thụ đắc được phần thừa kế lý tưởng như gia đình mình… Bán đi thì dễ nhưng dễ gì tậu lại… Mà cảnh nhà mình bây giờ đâu đến nỗi nào khốn khó cho cam, bán làm chi?...  Sao không nghĩ đó sẽ là nơi thừa tự, thờ phụng ông bà tổ tiên, là chốn nghỉ ngơi thanh nhàn, đắp đổi được cảnh sống thị thành vốn dĩ chỉ làm con người mất gốc chân quê…”. Bất ngờ, con dâu tôi lên tiếng: “Con chỉ sợ vùng quê hẻo lánh, thiếu điều kiện chạy chữa bệnh kịp thời… Mà ba đã có tuổi và cũng chớm bệnh già rồi…”. Cuộc hội ý lại quay lại những nghi ngại ban đầu, trước quyết định về vườn của tôi… Tôi chống chế: “Liệu có bệnh thì về đây chữa bệnh, lo gì cho xa…”. Thằng con trai tôi nói dè chừng: “Biết vậy, nhưng bọn con đi làm cả ngày, má ở nhà một mình không ổn…”. Vợ tôi phì cười, giải vây: “Bây lo không ổn vì sợ bà già ô sin buồn hả? Đừng lo, cái nghiệp ô sin của má mày mắc phải từ tấm bé, làm gì có chuyện hưu hay buồn… Mà đằng nào ba mày cũng phải về lo sửa sang lại nhà cửa, vườn tược, mồ mả ông bà… Chừng nào không ổn thì tính tiếp…”. Tôi cười hài lòng, cũng bởi thật ra nếu tôi về với cảnh vườn quê xưa lần này nữa là lần thứ hai…
Lần đầu vào năm 20 tuổi, là năm hòa bình rồi, ba má tôi quyết định hồi hương, sau hàng chục năm sống đời tản cư tạm bợ, làm ăn qua ngày ở tỉnh lỵ, chỉ cốt cho chị em tôi được ăn học, nhưng kết quả lại đầy thất vọng: Tôi thi rớt tú tài IBM, còn chị tôi lại đậu được một tấm tình với người bạn cũ đồng lứa, đồng liêu từ thuở học trường làng… mà từ lâu cả hai nhà đã cùng ngụ ý âu cũng “là duyên là nợ” thường tình…
Trong những ngày đầu hồi hương, chưa chi quan hệ hai nhà đã rất thắm tình thông gia, từ việc đỡ đần tu sửa nhà cửa, dọn dẹp vườn tược như đám rừng hoang, cây cao cụt ngọn, cây dại lan tràn, lổ chỗ hố bom, ổ pháo bầy hầy… Dạo đó, chị tôi xem như đã thử làm dâu nhà bên bển, chỉ cách vườn nhà tôi một dòng sông… Má tôi kể thật: “Nhà bển còn có mấy người thân đi bộ đội lâu rồi, nay mai cũng hồi hương về đây…”. Tôi thật thà cảm nhận: “Vậy là càng may phước cho chị hai…”…
Cho đến một hôm, chị tôi sang giúp bếp núc cho nhà bển đang bắt tay khai phá mấy hố bom làm ao nuôi cá, trữ nước tưới vườn mùa hạn, tạo thêm nguồn nước xài và ý tứ hơn nữa là chuẩn bị làm lễ cưới rình rang cho anh chị tôi để xua tan lời dị nghị đồn lành đồn xa… Nhưng thật họa kiếp!... Một quả bom sót đã nổ, làm nát tan thân xác cả 3 chủ nhân ông của cả một cơ nghiệp sung túc đang tượng hình… !
Chị tôi lâm cảnh gối chiếc, neo đơn từ đó… Rồi vài năm sau, ba mẹ tôi cũng lần lượt qua đời vì bệnh tật, túng thiếu và bất lực trước thách thức của cảnh vườn tược luôn đòi hỏi phải vun xới, bồi đắp bằng sức người và vốn liếng, chứ không thể bằng tiếng thở dài ngao ngán… Trong hoàn cảnh ngặt nghèo đó, tôi dàn xếp với chị tôi “hãy cố nguôi ngoai mà sống… lâu rồi đời mình cũng qua…”,* như câu hát thịnh hành một thời…
Từ dạo đó, tôi thu xếp hành trang trở ra tỉnh lỵ, theo đám bạn bày vẽ mua bán mánh mung, may ra kiếm tiền nhanh chóng hơn là làm vườn… Rồi cơ may đưa đẩy cứ đến, tôi được nhận làm chân bỏ hàng sỉ lẻ từ quê lên tỉnh ở chợ đầu mối Bình Tây – Chợ Lớn… Và cơ duyên cũng đến, tôi lấy được vợ đồng cảnh ngộ, cũng có thân phận mồ côi, giúp việc cho nhà chủ ở Chợ Lớn từ tấm bé… Vào khoảng năm 80, vợ tôi sinh được con trai đầu lòng cho nên bả rất nhiệt thành hưởng ứng kế hoạch hóa gia đình, chấp nhận triệt sản…  Cùng lúc đó, tôi được nhận vào làm hợp tác xã vận tải hàng hóa nông sản rau củ quả miền Tây, hàng năm đều đạt thành tích lao động tiên tiến, được thăng lương theo định kỳ và leo đến chức vụ cao nhất đã kinh qua là chủ tịch công đoàn một đơn vị cơ sở… Tuy nhiên, cơ may cho tôi thăng tiến chức vụ cao hơn nữa đã được nhiều cuộc họp liên tịch gác lại, vì phần xác minh lý lịch của tôi có đôi chỗ mờ nhạt, không rõ ràng, nhứt là thời tản cư và sau đó đi làm ăn với dân buôn bán mánh mung ở Chợ Lớn… Nhưng không sao, ở hiền gặp lành, hồ sơ hưu tôi cầm trên tay đây cho thấy được thụ đắc đầy đủ mọi khoản, đúng chế độ chính sách nhà nước ban hành…  
Sáng sớm hôm nay, ngồi một mình uống cà phê, hút thuốc 555, nơi chiếc bàn tròn gỗ mun gia bảo, có bộ chân quỳ chạm trổ bộ tứ linh bị sứt mẻ nham nhở, mang vết tích chiến tranh, được kê trước bàn thờ gia tiên mà tôi vừa thắp một nén hương đầu ngày… Tôi lan man ngẫm nghĩ, lần về vườn này là lần thứ hai, với tư thế người thừa kế hàng thứ nhứt, vậy phải ráng mà tái lập cơ ngơi này thật đàng hoàng, bề thế hơn xưa, ít ra là xóa đi vết tích cảnh đời cô quả của chị tôi một thời, trong con mắt của chòm xóm chung quanh…
Tôi suy tính nhanh: Một là, sẽ xây lại ngôi nhà này theo mốt villa, hướng ra cảnh sông đậm màu phù sa, thấy từng về lục bình hoa tim tím trôi êm đềm… để làm cơ ngơi cho đám “con một cháu bầy” về chơi, nghỉ dưỡng là chính… Hai là, sẽ cải tạo cảnh quan môi trường thoáng đãng hơn xưa, như một vuờn cảnh thanh lịch tân thời, có bờ dậu rào dâm bụt biệt lập, có cổng gỗ xoan đào bện dây hoa xác pháo, có lối đi riêng uốn quanh những bồn hoa bốn mùa, xuân mai, hạ hồng, thu cúc, đông lan… nổi bật trên thảm cỏ nhung mượt mà… Ba là, tạo điểm nhấn trước tiền sảnh, là một hòn non bộ có vòi nước phun, được xếp đặt bằng những tảng đá ong lâu đời mà chị tôi bỏ lăn lóc, vất vưởng bên hè kia... Nhưng muốn tính gì thì tính, trước hết cũng phải làm đủ thủ tục hợp thức hóa chủ quyền thừa kế sổ đỏ cái đã… Bất giác tôi thở dài, nhấp một ngụm cà phê, hít một hơi dài điếu thuốc 555, rồi phà ra một luồng khói mịt mờ...
Ngoài ngõ chợt có người khách không mời mà đến, lon ton bước vào nhà và chào tôi như quen thuộc lắm: “Anh là anh ba Ngọc Hoàn mới về hả?… Em là hai Lanh, là cháu bên vợ ông ba Bận ở bên kia sông đây mà… Em đến thăm anh ba là vầy, như em đây hồi trước vẫn hay sang giúp chị hai Ngọc Nữ, mỗi khi chị có việc cần nhờ…”. Xưa nay, tôi vốn mù mờ và hay dị cảm quan hệ họ hàng chòm xóm, bởi tính khí bôn ba, ưa giao du “tứ hải giai huynh đệ”, quen cảnh đời buôn bán của dân tình xóm chợ hơn là xóm quê… Nên khi nghe nói vậy, tôi đoán hiểu ngay, bèn ra vẻ nhận biết qua qua: “À nhớ rồi… Là chỗ thông gia hụt ngày trước phải không?”…
Rồi tôi rót trà mời và hỏi thẳng có việc gì cần bàn không… Hai Lanh ngập ngừng nói dè chừng: “Biết anh về thừa kế mảnh vuờn nhà này nên em tính qua để hỏi anh có cần gì thì sẵn sàng giúp một tay, như giúp cho chị hai Ngọc Nữ hồi truớc vậy thôi… Mà này, anh ba nên làm trước mọi thủ tục giấy tờ thừa kế sổ đỏ cái đã… Vùng này đang qui hoạch qui mô lắm, hành lang bờ sông bị thụt vô cả 100 mét lận… Nhưng dù sao, anh cũng còn giữ được mặt tiền sông, nhứt cận thị, nhì cận giang mà…”. Tôi ỡm ờ: “Phải rồi… Nếu vậy thì mặt tiền sông mảnh vuờn nhà này bề ngang vẫn còn nguyên 100 mét có lẻ, bề sâu nở hậu chỉ còn lại cỡ 200 mét có lẻ… Vậy cũng được, phần mồ mả hương hỏa vẫn còn nguyên mà…”.
Thấy tôi trầm ngâm nghĩ ngợi, không nói gì nữa… Hai Lanh nấn ná gợi chuyện: “Hồi cả nhà anh tản cư, nửa đêm về sáng, du kích hay qua bến sông này, nghỉ chân ở nhà anh, rồi họp hành bàn bạc gì đó trước khi tản đi… Cũng có lần lính tỉnh càn vào tận đây nhưng không dám cắm chốt… Còn bom lạc pháo bầy dập vào vùng này như cơm bữa… Bởi vậy, cả nhà dì dượng ba Bận với anh hai Quốc Toản chết thảm vì bom sót là vậy… Tội nghiệp quá !...”.
Nghe hai Lanh kể lể, làm sống dậy lại cả một thời khốn khó của cảnh nhà… Thật ra ba má tôi tuy tản cư ra tỉnh nhưng vẫn lén lút về thăm nhà và có kể ít nhiều những điều như hai Lanh vừa kể… Thậm chí, mỗi lần cải trang về thăm nhà, ba má tôi còn lén mua thuốc tây, thuốc lá, đường, sữa, bột ngọt… mang về chôn giấu sau hè, để cho anh em du kích liệu bề đến lấy… Hành động và nghĩa cử đó về sau được xem là có công với cách mạng… Nhưng muốn chứng thực điều đó thật không dễ, vì những câu hỏi ngặt khó giãi bày được đặt ra ở lý lịch là hồi nào? ai biết? đang làm gì? ở đâu? …Vì vậy, nhiều khi những điều “thi ân bất cầu báo” đó cũng dần bị quên lãng, trừ phi có ai đó nhắc nhớ như hai Lanh đây…   
Tôi lơ lảng rồi giật mình, mời hai Lanh uống nước nói chuyện chơi, nhưng nó lật đật đứng dậy chào tôi ra về… Tôi quen thói chìa tay ra bắt kiểu thị dân, nó lúng túng úp hai bàn tay chai sần che bụng, đi giật lùi, nên tôi phải nhún bước tiễn nó về như hai người anh em bà con, đã lâu năm lắm rồi mới gặp nhau…
 Mấy tháng trời sau đó, tôi lòng vòng ra xã, lên huyện rồi lên tỉnh như đưa thoi để làm cho xong hồ sơ thừa kế sổ đỏ, nhưng không đâu vào đâu, đợi xin chữ ký một nơi, rồi chờ đóng dấu một nẻo, hỏi điều này lại lòi ra điều khác, đơn từ viết đi viết lại theo ý kiến chỗ này lại không đúng ý chỗ kia… Tất cả chỉ vì cái lỗi là sau khi tôi đi làm ăn tha phương, chị hai tôi không rành việc hành chánh, không khai tên tôi trong tờ khai hộ khẩu mà lại có trong hồ sơ làm chứng minh nhân dân của chị… Mệt mỏi quá xá! Xem ra không thể mở màn cảnh hưu nhàn về vườn ngay từ những tháng ngày đầu tiên nữa rồi… Con dâu tôi nó nói hú họa vậy mà có lý, ngộ lỡ đổ bịnh vì vấn nạn giấy tờ kiểu này chắc chết chắc, vô phương chạy chữa…    
Đến ngày sắp cạn tiền túi, tôi đành quay về nhà ở Chợ Lớn… Đêm về khó ngủ, tôi ra lan can ngóng cảnh trời khuya, hướng mặt về phương Nam, lặng lẽ nhớ quê nhà… Sáng tinh mơ, tôi tỉnh giấc theo tiếng xe, tiếng còi, lẫn mùi khói bụi càng lúc càng ồn ào náo nhiệt theo nhịp sống đã sang một ngày mới cật lực bon chen… Được năm ba bữa, nửa tháng tôi lại bức bối, nôn nao muốn về thăm cảnh vườn quê… Tức cảnh hưu về vườn trong hoàn cảnh của tôi xem chừng có đẹp không là trong tâm tưởng và hình dung…
Và lần về quê cuối cùng, tôi hoàn tất mọi thủ tục bốc cốt dòng họ Võ Văn đưa về chùa ở Hốc Môn, để thỏa mãn điều kiện cơ bản của bên mua mảnh vườn nhà này là người em út của ông ba Bận, là chỗ thông gia hụt với nhà tôi, nhà ở bên kia sông, lúc trước đi bộ đội tập kết, bây giờ là một chuyên gia kinh tế đối tác - đầu tư, có cạc-vi-dít, có vai có vế, và thằng hai Lanh là tài xế riêng của ổng…


Bên bờ sông quê… 1.11.2013


* Ca từ của “ Bài không tên số 5”, của nhạc sĩ Vũ Thành An.               

No comments:

Post a Comment