TẢN MẠN CHUYỆN CÀ PHÊ
Võ Văn Tăng
Một buổi sáng sớm ở bến phà
Rạch Miễu, năm tôi lên tám tuổi. Hơi lạnh phả từ mặt sông nước lớn thổi
vào bờ, làm tôi phải kéo cao cổ chiếc áo ấm lên một chút. Vì đã gần Tết được
nghỉ học, ba tôi cho tôi theo ông trong
một chuyến xe khách đi Sài Gòn.
Trong lúc đợi phà, ba kêu cho tôi ly cà phê sữa nhỏ trong
một tiệm
người
Hoa ở sát bến phà phía Bến Tre. Ba khuấy đều ly cà phê, đổ một ít
cà phê vào cái dĩa cho mau nguội… Hương cà phê
thơm thơm, vị sữa bò ngọt ngọt, âm ấm hòa quyện vào cái hơi lành lạnh của gió từ sông
thổi vào. Tiếng lách chách của nước bị sóng xô từng đợt dưới gỗ nhà sàn nghe rất
vui tai, khiến ly cà phê đầu đời ấy cho
đến mãi bây giờ tôi vẫn còn nhớ… dù thời gian đã qua rất lâu. Sáu mươi năm rồi
còn gì !...
Sau nầy
lớn hơn, có nhiều bạn bè hơn, lâu lâu cũng rũ nhau vào quán
“tập tành” uống cà phê. Lúc đó còn nhỏ, chúng tôi nghĩ
rằng: vào quán nhâm
nhi ly cà phê đắng đắng ngọt ngọt, phì phà khói thuốc… như người lớn là
“sành điệu” lắm rồi ! Thuốc lá cũng đã thử nhưng bị
sặc, khó chịu quá nên
không dám hút. Có điều là đụng đâu uống đó chưa biết
chọn quán chọn bàn như sau nầy…
Cho đến khi thi đậu, được vào học ở
Trường Trung học Kiến Hòa là một vinh dự của tôi và gia đình. Ngôi trường mà
những năm học tiểu học tôi hằng mơ ước!
Đứng bên kia hàng rào chì gai của Trường nữ Tỉnh
lỵ, nhìn “các anh” mặc áo trắng bỏ vào quần tây dài màu xanh dương, mang giày
bata trắng muốt mà…phát thèm! Cổng trường
hướng phía hồ Trúc Giang nước xanh xanh có hàng me tây quanh hồ, những chiếc lá theo gió bay bay cùng những
cánh hoa nho nhỏ xinh xinh “đậu” trên
tóc, trên vai áo trắng của các bạn nữ sinh… khiến lứa học trò mới lớn chúng tôi
phải… ngơ ngơ, ngẫn ngẫn, mơ mơ, mộng mộng !
Rồi những đoạn văn ngắn ngắn, những bài thơ không đầu không đuôi
“tràn
trề cảm xúc”… từ đó ra đời, có gì đó thú
vị vô cùng! Khi đã sửa chữa
xong
thì “lẩm ba lẩm bẩm” cho đến khi thuộc
lòng mới thôi ! Cho nên quán
cà phê Giao Châu ở
góc bờ hồ thường là nơi hò hẹn của cánh
nam sinh, đến
đó
để trao đổi… những “tác phẩm” ấy.
Tôi nhớ lúc đó đã được đọc thơ Tế Hanh
:
“Những ngày nghỉ học tôi hay tới,
Đón chuyến tàu đêm đến những ga.
Tôi
đứng tôi đưa xem tiễn biệt,
Lòng buồn đau xót nỗi chia xa !”
Có một thằng bạn ứng khẩu :
“Những giờ trống tiết tôi hay tới,
Tới quán Giao Châu cạnh bờ hồ.
Có tiền thì trả, đừng thiếu chịu,
Bà già chủ quán bả chửi cha !”
Bài thơ không vần không điệu ấy khiến
cả bọn cười ngã nghiêng và cho
rằng
“uống cà phê ở cạnh trường, cạnh bờ hồ là điều hạnh phúc !”. Sau nầy
càng
lớn tuổi, tôi vẫn thấy điều mà chúng tôi nghĩ năm nào đến bây giờ vẫn
hoàn
toàn đúng !
Sau đó, có một quán
cà phê khác cũng không xa bờ hồ lắm vừa
mới
khai
trương, chúng tôi cũng vào uống thử. Quán trang trí đẹp, rộng rãi, thoáng
mát…nhất
là cái tên Ngy khó hiểu, khiến chúng
tôi tò mò… Chị chủ quán –
tuổi
“dừa cứng cạy” có gương mặt đẹp - cho
biết đó là tên viết tắt của cụm từ “người yêu” ! Âu đó cũng là một điều thú vị. Uống được vài ba lần,
chúng tôi quay trở lại quán Giao Châu, vì ở đó lại được nhìn trường, nhìn bờ hồ
có nhà Thủy tạ ngói đỏ, mặt nước gợn sóng lăn tăn, lấp la lấp
lánh… vẫn thích hơn !
Rồi những bài thơ, bài văn ngắn ngắn không
đầu không đuôi, mây trời
hoa
lá đó đã được… đăng báo ; đó là điều lớn lao vô cùng. Các bạn chuyền tay nhau tờ báo với những
lời chúc mừng và khích lệ. Tiền nhuận bút ít ỏi mà tòa soạn báo gởi về cũng chỉ
để cùng các bạn… uống cà phê.
Tuổi học trò dần trôi với những mơ mộng
vu vơ, chợt buồn chợt vui.
“Nghĩ
suy” về những cuộc chia tay bạn bè không
hẹn trước… và dĩ nhiên những ly cà phê ngày càng có thêm hương vị của sự
suy tư, gởi gắm trong
những
giọt đăng đắng ấy những hoài bão, viễn ảnh tương lai còn rất dài phía trước,
chưa biết thế nào là thế nào ! Ngày sau sẽ ra sao ?
Những ngày còn đi học ở trường, có một
“quy luật bất thành văn” của
cả
cánh nam sinh chúng tôi mà sau nầy các thầy lớn tuổi cũng phải công nhận.
Thời
đó, có một quán cà phê khá rộng người Hoa ở sát “ngã tư quốc tế”, trong
quán
có nhiều bàn tròn và các dĩa bánh ngọt để sẵn, cà phê ở đó ai cũng khen
ngon
pha bằng siêu đất. Có điều cả thầy và trò đều thích đến đó ! Hôm nào cả
nhóm
đi ngang định ghé mà thấy có ông thầy dạy trường mình (có dạy lớp
mình
hay không cũng vậy) ngồi trước đó với vài người bạn, thì đám học trò lãng qua
quán khác. Cũng như khi đã ngồi trước đó đang líu lo nhiều chuyện,
bất
chợt thấy thầy và bạn thầy vào quán, thì… a
lê hấp: kêu trả tiền và lặng
lẽ…
rút êm ! Cũng có nhiều lần cả bọn đang đi ngoài đường, nhìn thấy ông thầy đang
đi ngược chiều xa xa thì vội vã bỏ điếu thuốc đang hút dỡ xuống
đường
và đợi khi đến gần cả bọn kính cẩn… cúi đầu chào thầy !
Ngoài chuyện tập tành viết lách, làm
thơ… chúng tôi cũng tập tễnh học
đàn.
Ngoài những giờ lý thuyết âm nhạc ít ỏi ở trường, trong cặp chúng tôi
thường kè kè quyển Tự học Tây ban cầm của Lan Đài.
Hình ảnh “người con
trai
ôm đàn ghita hát tình ca” thấy cũng hay hay, đã thôi thúc chúng tôi… tự
học
đàn. Từ khi “…tôi ca không hay, tôi đàn
nghe cũng dở !...” đến khi đệm được cho các bạn hát trong các buổi sinh hoạt và
các đêm “thanh đàm” của
các
trại hè do trường tổ chức… chúng tôi thấy rất vui.
Nhưng gần bên cái vui vui thì cũng có
cái buồn buồn.
Rồi đến những năm sinh hoạt du ca, tôi được biết một
“đứa con tinh
thần”
của anh Nguyễn Đức Quang là bài “Vì tôi là linh mục” đầu tư rất nhiều
tâm
huyết (sau những bài thanh ca và trầm
ca) đành “ngậm ngùi” bán cho
Phạm
Duy để lấy tiển trả… nợ cà phê cho anh em ở quán anh Ba Râu đường
Sương
Nguyệt Anh, Quận 1, Sài Gòn, đối diện Trụ sở Phong trào du ca Việt
Nam thời bấy giờ. (Xin mở ngoặc một chút) Trước đó, biết
chuyện anh Trần
Thiện
Thanh “cúi mặt làm ngơ” bán bài “Chuyến đi về sáng” cho Mạnh Phát lấy tiền lo
cho gia đình đang lúc khó khăn ; đó cũng là những điều… xót xa !
Lại là chuyện “bất thành văn” khác của
“cà phê cà pháo”; không phải
chỉ
để thưởng thức cà phê theo gu mỗi người, khi vào quán mà mình đã chọn
thì
y như rằng: cái bàn ngồi và người đối ẩm là ưu tiên số một… Hôm nào
đến
mà bàn thường ngồi của mình đã có người khác ngồi rồi, dĩ nhiên cả bọn
phải
ngồi bàn khác, cho nên cà phê hôm đó… không được ngon lắm.
Càng ngày tuổi càng lớn, những tâm sự
về tình cảm, chuyện đời, chuyện
người,
chuyện mình, chuyện cuộc sống mà bạn bè
trao đổi bên ly cà phê; nó
đậm
đà, thi vị biết chừng nào.
Rồi sau đó, gia đình tôi chuyển lên
sống ở Sài Gòn.
Khi có việc phải về quê, lúc phà vừa
cặp bến hoặc sau nầy khi qua khỏi
cầu
Rạch Miễu. Cái bầu không khí mà tôi đang hít thở dường như nhẹ nhàng
hơn,
dễ chịu hơn. Nếu không có việc gấp thì thế nào tôi cũng đi về phía trường cũ và
bờ hồ thân thương ấy. Uống cà phê ở quán gần trường nhất để…
nhớ
lại “quãng đời nhỏ dại”, để hình dung những tà áo trắng ngày nào giờ tan
trường
phủ gần kín vòng tròn bờ hồ, bay bay, bay bay… như đàn bướm trắng của cõi thần
tiên trong truyện cổ tích !... Dĩ nhiên không quên réo gọi một vài
“bạn
già” đến để tâm sự nhiều điều, nhiều chuyện trên đời… rồi chia tay mà không hẹn
ngày gặp lại !
Sau nầy vì cuộc sống đưa đẩy, tôi “lặn lội” ra
Buôn Ma Thuột làm ăn.
Lần
đầu tiên được đến Tây nguyên – khi xe qua khỏi những khúc cua quanh co của đèo
Phượng Hoàng – tôi được hít thở không khí vùng cao với mùi đất
đỏ
badan cộng với mùi thoang thoảng của
những vườn cà phê đang trổ hoa
ven
đường, khác hẳn với mùi phù sa và hương thơm của những vườn cau quê
hương,
càng khác rất xa với mùi nắng cháy, mùi khói, mùi nhựa đường hăng hắc của Sài
Gòn.
Tôi tìm đến một quán cà phê đang đông
khách(chắc là cà phê ngon lắm đây !) để xem cà phê của “thủ phủ Tây nguyên”
ngon đến mức nào. Một tiếp
viên
nữ trong sắc phục “sơn nữ Phà Ca” mang ly cà phê nóng còn bốc khói đến… Chỉ một
lát, mùi cà phê thơm lừng kia mất hẳn khi
giọt cà phê cuối cùng của cái phin nhỏ
hết xuống chiếc ly xinh xinh; nó trở thành
ly cà phê đen nguội, nó bị giãm nhiệt
theo cái lạnh của buổi sáng vùng cao: cà
phê không được ngon! Nghĩ lại thì…chắc không phải (cà phê không ngon thì làm
sao
quán lại đông khách). Có thể do cãm nhận của riêng mình. Chắc tại quán
không
quen, bàn không quen và vô duyên nhất là… “sáng nay cà phê một
mình
!”. Cho nên mấy năm ở Buôn Ma Thuột, tôi chỉ uống… cà phê đá !
Bây giờ, đời đã về chiều và cũng “gần tắt nắng” ! Có điều thật đáng
“xấu
hổ” là sau sáu mươi năm uống cà phê, tôi chưa biết thế nào là cà phê ngon và
ngon ở chỗ nào. Chưa biết cà phê chè ngon hay cà phê dối ngon và
ngon
ở đâu, cũng như “cà phê bắp” khác với
“cà phê đậu nành” ra sao ! Chỉ
biết
hễ vào quán cà phê thì… chỉ uống cà phê. Giống như có nhiều người cho
rằng
“hoa chanh nở giữa vườn chanh”(chứ hổng lẽ hoa chanh nở giữa vườn
cam)
và “ra bờ sông em nhìn thấy sông” (hổng lẽ ra bờ sông em nhìn thấy biển). Bất chợt tôi…cười một
mình, mà cũng không biết mình cười chuyện gì !.
Nhớ rất nhiều về những ngày xưa ở quê
hương Bến Tre giàu nghĩa tình.
Ở
đó tôi có nhiều bạn bè với đủ thứ hỉ nộ ái ố trên đời: nên có, hư có, cười đó,
khóc
đó…Đời mình cũng có rất nhiều khúc quanh, những khúc quanh tình cảm và cả cuộc
sống.Vui cũng nhiều và buồn thì mãi… triền miên !
Nhớ lại những ngày còn đi học với bao
buồn vui. Tình bè bạn, nghĩa thầy trò gắn bó nhiều năm… Cho đến bây giờ không
còn lại mấy người ; một
số
đã “đi xa” và còn lại thì hiện đang chống chọi với bệnh tật và sự già nua !
Còn lại một người thầy lớn hơn tôi 6
tuổi, dạy Việt văn năm tôi học lớp
đệ
Ngũ ở Trường Trung học Kiến Hòa ; Thầy Bùi Thanh Kiên. Sau nhiều năm
xa
cách, mất liên lạc từ năm 1968 vì những thăng trầm của cuộc sống… Thầy
trò
vô tình gặp lại nhau ở Sài Gòn năm 1995…mừng mừng, tủi tủi. Dĩ nhiên là không
thiếu ly cà phê để …hàn huyên, tâm sự !
Nhớ những ngày xa xưa ấy, tuy không lớn tuổi hơn
bao nhiêu nhưng thầy trò có nhiều xa cách; thầy giáo đang giảng bài còn học trò
thì đang lắng
Nghe.
Mỗi khi thầy gọi tôi lên trả bài, thì đúng là “run en phát rét !” nhất là
những
bài bình giảng. Hồi đó, cả thầy và trò đều hướng về tương lai. Tương
lai
còn rất dài phía trước của cả thầy giáo trẻ và học trò mới lớn… Ai cũng
phấn
đấu cho sự nghiệp và hạnh phúc sau nầy của riêng mình.
Còn bây giờ thì… bên ly cà phê của
tuổi về chiều, tóc cả thầy và trò đều bạc như nhau, sự xa cách ngày xưa dường
như đã được rút ngắn lại. Cho nên sự tao ngộ bây giờ đồng nghĩa với sự hoài
niệm… và những câu chuyện trao đổi của thầy trò dường như không bao giờ cạn
!...
Đã hơn bốn năm nay, nếu không có việc
bận thì sáng Chủ nhựt nào tôi
cũng
đến nhà đón thầy đi uống cà phê, dù trời mưa hay nắng. Điểm đến là một
quán
tuy không rộng lắm, nhưng cả thầy trò đều chọn để gặp gỡ… chỉ đơn giản là ở giữa quán có trồng một cây
si gần giống cây si ở trường năm xưa…
Cho
nên khi đến quán, tôi cảm thấy… ấm lòng hơn và hình ảnh trường cũ lại hiện về,
nó gợi lại cho cả thầy trò những hồi ức về một thời xa xưa với nhiều kỷ niệm
không thể nào quên !
Điện thoại thầy đổ chuông.
- “A lô, tôi nghe…ờ ờ… tôi đang uống cà phê với người bạn…ờ ờ…
được
được…ờ ờ… hẹn gặp sau nghen !”.
“Người bạn”. Lời thầy tuy không còn
tròn tiếng như xưa, nhưng hai từ
“người
bạn” đã làm tôi xúc động đến… nao lòng! Phải (theo thầy) ngày xưa là học
trò, bây giờ được thầy xem là bạn… có thể đã từ lâu thầy nhận thấy thầy trò có
cùng quan niệm sống, đồng cảm đồng điệu về nghĩ suy cuộc đời và cả về tình cảm.
Vì tuy nói rất nhiều về quá khứ; về… hồi đó, về… năm ấy, về… ngày xưa, nhưng
cũng phải thẳng thắn nhìn về tương lai.
-
“Quỹ thời gian” còn lại quá ít phải không thầy !
Thầy
lúc nào cũng nói vui, nhưng có gì đó nghèn nghẹn, buồn buồn :
-
“Đích đến” của cuộc đời đang ở trước mặt, rất gần…rất gần ! Thầy và
em,
ai “đến đó” trước cũng được, không cần
xếp hàng mà cũng không cần chen lấn.
Trước khi chia tay hẹn gặp lại Chủ
nhựt tuần sau. Thầy trò thường nhìn lại quán cà phê có cây si xanh mướt, nhiều
rễ phụ buông thòng xuống… đung
đưa
theo gió.
Tôi dắt xe ra, nói với thầy :
-
Cà phê bữa nay ngon quá hén thầy.
Thầy
mĩm cười :
-
Ừ, ừ… ngon !
Tiếng
hát Ngọc Lan vẫn nhè nhẹ, man mác… văng vẵng sau lưng…
“ngày
nào mình còn có nhau xin cho dài lâu… ngày nào đời thôi có nhau…
xin
người biết đau !”….
Sài
Gòn, 18.8.2015.