Quê Dừa
yêu dấu
Nguyễn
An Cư
Mấy năm gần
đây, tỉnh Bến Tre đã long trọng tổ chức Lễ hội Dừa để quảng bá các sản phẩm làm
từ dừa. Từ ngày 7-13/4/2015 tới đây, Lễ hội Dừa Bến Tre lần thứ IV lại được tổ
chức với qui mô hoành tráng hơn. Những ngày nầy, du khách đến đây sẽ thấy cây dừa
Bến Tre gắn bó mật thiết với kinh tế và văn hóa của người dân Bến Tre như thế
nào cũng như sẽ thấy được tiềm năng hùng hậu của cây dừa Bến Tre
Từ Tiền Giang
đổ về, xe vừa leo lên dốc cầu Rạch Miễu -cửa ngõ đầu tiên của tỉnh Bến Tre- du
khách sẽ hết sức ngỡ ngàng và sẽ hiểu tại sao người ta gọi Bến Tre là Xứ Dừa.
Chỉ cách
nhau một dòng sông nhưng hai bên bờ Tiền Giang và Bến Tre như hai vùng trời
khác biệt. Nếu bên nầy bờ sông Tiền là khu công nghiệp, là nhà cửa hiện đại
chen chúc lô nhô của tỉnh Tiền Giang thì ngược lại bên kia bờ Bến Tre là một
vùng xanh ngắt bóng dừa. Dừa, dừa… ngút mắt!
Chắc chắn
sẽ có du khách lần đầu mới về Bến Tre reo lên rằng: “Nhìn kìa! Ôi! Bến Tre hoang
sơ và thơ mộng quá!”. Đúng là vậy! Từ trên chiếc cầu dây văng hiện đại cao vút,
giữa bốn bề trời nước bao la nhìn xuống, đúng là Bến Tre tuyệt đẹp và quyến rũ
như một cô gái yêu kiều đang mê ngủ khiến bao chàng trai phải thập thò nhìn trộm,
bước đi chẳng đành!
Bây giờ,
bên tay trái quí khách là hạ lưu sông Tiền, đổ ra biển Đông bằng hai nhánh Cửa Tiểu và Cửa Đại -hai trong chín
hàm rồng của Cửu Long giang-. Sáng sáng, mặt trời đỏ chói vén những áng mây hồng
ngoi lên cũng từ phương ấy. Lúc nầy, bốn cù lao Long, Lân, Qui, Phụng vẫn còn lặng
lẽ chìm trong giấc ngủ. Dòng sông Tiền phủ một màn sương trắng đục từ từ tan ra
như khói mỏng để lộ dần những chiếc sà lan, những tàu chở cát đá lặng lờ trôi
và những chiếc lồng bè nuôi cá bập bềnh trải suốt hai bên bờ. Tất cả đều êm đềm,
lặng lẽ trong cái không khí tinh khiết lành lạnh của buổi ban mai.
Bến Tre từ
xưa đến giờ là vùng đất của dừa. Dừa chiếm một diện tích rất lớn, đi đâu cũng gặp
dừa, cho nên Bến Tre có biệt danh là Xứ Dừa. Dân Bến Tre còn được gọi bằng cụm
từ hết sức mỹ miều và thân thương là “Dân Xứ Dừa”. Có lẽ trên đất nước Việt Nam nầy
chưa một nơi nào có một loại đặc sản đủ làm biểu tượng cho xứ sở mà khi nói lên
ai cũng biết như Bến Tre. Đó là điều mà bất cứ người dân Bến Tre nào cũng rất đỗi
tự hào. Và có lẽ cũng chính vì thế mà bao đời nay người Bến Tre đã quyết sống
chết với cây dừa.
Người ta
cũng chưa khẳng định được dừa ở Bến Tre có từ lúc nào và từ đâu đến. Ai cũng “lớn lên đã thấy dừa trước ngõ” như nhà
thơ Lê anh Xuân, nên gần như tất cả tài liệu đều ghi xuất xứ cây dừa Bến Tre mập
mờ bằng hai chữ “Có lẽ”! Và cũng “có lẽ” từ thời mở đất, với đặc điểm đất rộng
người thưa, vùng đất Bến Tre dừa là loại cây dễ trồng nhất, không cần chăm sóc
chu đáu như các loại cây trái khác nên được dân chúng ưa chuộng. Cứ trồng rồi
phó mặc cho thiên nhiên; nước ngọt và phù sa màu mỡ của sông Tiền, sông Ba Lai,
sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên bồi đắp; đủ tháng đủ ngày là dừa đơm hoa kết
trái.
Dừa đã
nuôi sống, che chở nhân dân Bến Tre từ thế hệ nầy sang thế hệ khác. Đi dưới rặng
dừa xanh oằn oặt trái, dù đang lắc lư trong giông gió, bạn cũng đừng khép nép,
lo sợ. Tôi chưa nghe ai bị dừa rụng chết bao giờ. Có lẽ cây thiêng che chở người
lành?
Ngược lại, có lẽ ai cũng biết người Bến Tre đã…
“vắt cạn kiệt tận xương tủy” cây dừa. Họ khai thác triệt để từ hoa quả đến thân,
lá của dừa! Nghe đâu rễ dừa cũng là một loại dược liệu trị được nhiều thứ bệnh.
Trái dừa không
những chỉ cho nước để giải khát mà còn cho ra đời không biết bao sản phẩm công
nghiệp, trước nhất là dầu dừa. Từ dầu dừa người ta chế biến nào là bánh kẹo, xà-bông,
dược phẩm, mỹ phẩm. Đủ thứ hết. Mùi thơm phức của những nhà máy ép dầu dừa ở Bến
Tre nhất là nhà máy ép dầu Nam Phát ở đầu cầu Gò Đàng (tỉnh lỵ Trúc Giang xưa
kia – thành phố Bến Tre bây giờ) đã thấm sâu vào khứu giác và trí nhớ của tôi từ
thuở ấu thơ không thể nào quên. Ép lấy dầu xong, xác cơm dừa còn được chế biến
làm thức ăn gia súc, làm phân bón cây trồng. Ngày xưa, tóc đàn bà, con gái Bến
Tre óng mượt được cánh đàn ông trầm trồ ve vuốt cũng nhờ dầu dừa.
Nước cốt dừa phải nói là thứ nước chấm, thứ
“gia vị” độc đáo “có lẽ” cũng xuất phát từ Bến Tre. Nhiều món ăn, nhiều loại
bánh, kẹo mà không có nước cốt dừa, xem như… vứt! Dĩa dồi chó nóng hổi, tô thịt
chó xào lăng nghi ngút khói mà không có món nước mắm thấm làm từ nước cốt dừa
thì nhạt phèo! Vị béo, vị ngọt, vị mặn, vị cay trộn lẫn vào nhau làm tê đầu lưỡi.
Chén chè đậu, chén chè thưng, dĩa chuối xào muốn cho người ăn nhớ mãi nhất thiết
phải có nước cốt dừa. Ăn xong gói bánh hỏi, bánh bèo, bánh bò… ai không liếm nốt
phần nước cốt dừa dính trên lá chuối dùng gói bánh là chưa biết thưởng thức. Nó
ngon, nó tuyệt diệu làm sao ấy và làm chúng ta luyến tiếc mãi như luyến tiếc bờ
môi của người yêu đầu đời bị trắc trở ly tan. Tép rang dừa, cá kho dừa, lươn
kho dừa, cà ri dừa, khoai bí hầm dừa, thịt trâu lá cách xào dừa… là món ăn thường
nhật và khoái khẩu của nhiều người. Cái món thịt heo kho tàu ăn với dưa cải nếu
được kho bằng nước dừa nữa thì nó mềm, nó thanh, nó dịu làm sao.
Kẹo dừa, mứt dừa, thạch dừa, mật ong dừa, nước
màu dừa Bến Tre bây giờ đã là thương hiệu vang ra nhiều nước. Thời thượng nhất
bây giờ ở các nhà hàng là món gỏi củ hũ dừa và món đuông dừa. Mà ngon thật! Hai
món nầy đều đắt giá. Nghe nói một con đuông dừa ở nhà hàng hơn mười ngàn đồng! Người
không biết, ăn hai món nầy khen ngon nhưng đâu ngờ đã tiếp tay tiêu diệt vườn dừa
Bến Tre! Ăn củ hũ dừa là ăn cả mầm sống của cây dừa. Cây dừa bị đốn lấy củ hũ
thì toi mạng. Nó không đâm chồi mọc nhánh như những cây khác đâu. Rất may, bây
giờ có người đã kịp thời chuyên trồng dừa để lấy củ hũ. Đuông dừa còn hiếm hơn.
Cây dừa nào bị đuông ăn mới có đuông và khi phát hiện được dừa bị đuông ăn thì
gần như hết phương cứu chữa. Không ngã gục thì cũng èo uột chẳng còn nên thân
nên hình gì nữa. Hiếm và đắt như thế nên người ta đã lén nuôi đuông dừa, một việc
làm của những người chỉ thấy cái lợi nhỏ bé trước mắt mà không thấy tai hại to
lớn về sau, bởi những con kiến dương dừa sẽ sinh…
…Hồi trước,
hầu hết nhà cửa ở Bến Tre đều bằng cây dừa và lợp lá, cặp vách bằng lá dừa nước.
Tất cả cột, xiên, kèo, khuông vách… đều bằng gỗ dừa. Ở một căn nhà dừa như thế
mát mẻ vô cùng. Nắng không nóng vào nhà, còn gió thì tràn ngập bốn bề. Có điều
bây giờ du khách đến “quê” của cụ Đồ Chiểu và vị tiến sĩ đầu tiên của Nam bộ mà
tìm một ngôi nhà dừa có lẽ còn khó hơn tìm một… ông tiến sĩ! Tất cả đã ngói hóa
hết rồi; có còn chăng là ở các khu du lịch, khu kỷ niệm, cất lên để cho lớp trẻ
biết được ngôi nhà của cha ông thuở xa xưa như thế nào.
Theo thời
gian, nhiều vật dụng trong nhà ở Bến Tre cũng được làm bằng gỗ dừa: giường,
đũa, vá xúc cơm, chổi cọng dừa…. Và từ đấy hàng mỹ nghệ bằng gỗ dừa, miểng gáo
dừa, cọng lá dừa, nhen dừa phát triển mạnh mẽ: bình hoa, giỏ xách, đồ trang sức
phong phú đủ loại đủ kiểu. Mới đây bộ nhạc cụ bằng gỗ dừa của nghệ nhân Võ Văn
Bá và nhạc sĩ Lê Dân đã được ghi vào gui-net Việt Nam.
Cây cầu dừa, cột sào đáy bằng dừa cũng là hình
ảnh đặc trưng của vùng sông nước Bến Tre. Cầu dừa không lắt lẻo như cầu tre. Nó
vững chắc nhưng lại rất trơn, nhất là vào mùa mưa hay mùa nước nổi. Khó đi nhất
là những cây cầu bắc qua các mương rộng và chỉ bắc bằng một cây dừa. Nhiều cô cậu
ở Bến Tre đã bén duyên vợ chồng hoặc để lại một kỷ niệm đẹp cũng từ chuyện “nắm
tay dắt nhau qua chiếc cầu dừa” rồi xôn xao rung động đến con tim. Bây giờ cây
cầu dừa ở Bến Tre cũng đã đi vào cổ tích. Tất cả cầu nông thôn, kể cả trong xóm
ấp đều được bê tông hóa; có chăng chỉ còn tồn tại ở các mương vườn.
Tàu dừa,
lá dừa là chất đốt phổ biến nhất ở Bến Tre. Cũng từ bếp củi dừa ui ui khói của những
bà mẹ quê mà những người con Bến Tre đi đâu cũng dễ nhớ nhà. Ai có trôi giạt làm
ăn xa xứ, chiều chiều lặng nhìn về quê hương, chỉ cần thấy một làn khói mỏng bốc
lên từ nhà ai đó, mắt đã cay cay. Nhớ. Nhớ vô vàn!
Miểng gáo
dừa bây giờ là một loại vàng đen, không ai dám đem chụm nữa. Nó được làm đồ mỹ
nghệ, làm than hoạt tính, rất nhiều công dụng. Chỉ xơ dừa đã xuất khẩu lâu rồi.
Ngay cả mụn xơ dừa mấy năm trước là chất thải đã làm ô nhiễm cả dòng sông Thơm ở
Mỏ Cày, dân làng phải kêu cứu vang động, thế mà bây giờ cũng được làm “đất sạch”
và đem xuất khẩu; đơn giản nhất là làm phân bón cây trồng, mỗi bao mụn dừa, mạt
cưa dừa giá ít nhất cũng mười ngàn đồng, không còn “rẻ như mạt cưa” nữa. Ngày
trước, vỏ dừa và miểng gáo dừa là đồ bỏ, đem chụm, đem độn mương; bây giờ, nhiều
lúc vỏ dừa và miểng gáo dừa ngang ngửa với cơm dừa làm nhiều người giật mình!
Đến Bến
Tre, du khách thỏa thuê ngắm vườn dừa và thoải mái uống nước dừa. Dừa mà du
khách thấy rợp bóng khắp Bến Tre hầu hết là dừa ta, loại “dừa công nghiệp”, nước
uống chưa ngon đâu. Đến Bến Tre mà không thưởng thức nước dừa xiêm, nước dừa dứa
hoặc ăn thử trái dừa sáp sền sệt như… sáp là thiếu sót lớn vì chưa thưởng thức
đặc sản chủ yếu của Bến Tre. Trưa nắng mà uống một trái dừa xiêm, dừa dứa thì
tuyệt vời. Bảo đảm nó mát, nó bổ dưỡng và tinh khiết hơn hẳn những lon nước
công nghiệp đầy hóa chất.
Cây dừa
thích hợp với vùng nước ngọt nhưng gần đây dừa Bến Tre đã lấn biển. Những huyện
vùng nước mặn như Ba Tri, Bình Đại, Thạnh Phú đều có chương trình ngăn mặn để
trồng dừa. Những thớt dừa xanh trĩu quả đã bắt đầu xuất hiện. Có điều người dân
Xứ Dừa có chung thủy với dừa như Nguyệt Nga và Vân Tiên hay không còn tùy thuộc
vào dừa có nuôi nổi họ hay không. Đã có lúc giá dừa xuống thấp làm cuộc sống
người dân Xứ Dừa lao đao. Có lúc, đây đó đã có tiếng cưa máy triệt hạ vườn dừa
để trồng các loại cây trái khác thật xót xa đau đớn!
Dừa đã làm
người Bến Tre xa xứ da diết nhớ quê hương. Nhớ những đặc sản được chế biến từ
trái dừa, nhớ tiếng lá dừa reo lao rao trong gió, nhớ những con đường quê chen
dưới rặng dừa ban trưa rợp mát và đêm về ngập ánh trăng thanh.
Người Bến
Tre đa phần chất phác, nhân hậu, thủy chung và mến khách. Phải chăng một phần họ
đã thấm nhuần đạo lý của cụ Đồ Chiểu, của Lục Vân Tiên nghĩa khí nhân hậu, của
Kiều Nguyệt Nga hiền thục thủy chung và một phần cũng bởi tâm hồn họ được bồi
dưỡng, vun đắp từ sự bao la, thanh thản của những rặng dừa xanh?
- N.A.C -