Khởi đăng hồi
ký của thầy Huỳnh Tấn Kim Khánh.
TRƯỜNG
XƯA… THƯƠNG NHỚ
HUỲNH TẤN KIM KHÁNH
Mấy đoản văn này
không gọi là hồi ký, thể loại văn học vốn mang tính nghệ thuật, đậm chất văn
chương. Chỉ là kể chuyện quá khứ, những hồi tưởng trong tám năm (1965-1973), gần
nửa thế kỷ qua. Tất cả thoạt ẩn trong lớp sương mờ của tuổi đời đã luống, thoạt
hiện trong niềm vui bạn bè, thầy trò ở những lần họp mặt, mấy buổi về thăm lại
trường xưa. Ngại ngần khi cầm bút vì nghĩ có gì đáng nói đâu. Nhưng tất cả như
chơi vơi, bềnh bồng trong không gian kỷ niệm, chẳng quay quắt tâm hồn nhưng không
hề nhạt nhòa trong ký ức. Phải giãi bày, dù có chuyện nhớ có điều quên, có việc
đúng có việc không đúng, cũng có tâm sự giấu chặt trong tim. Bạn có thể bận
trí, phiền lòng…. Xin hãy cảm thông.
1.Về trường
Giữa năm 1965, tôi tốt nghiệp Đại học Sư phạm
Sài Gòn. Giáo sư Trần Ngọc Ninh, Tổng ủy viên Văn hóa - Xã hội kiêm Ủy viên
Giáo dục ký sự vụ lệnh 1186 – GD/NV/2A/SVL ngày 10-8-1965: “Nay tạm thời bổ dụng
giáo sư trung học đệ nhị cấp hạng 4, chỉ số 470, 229 sinh viên có tên sau đây tốt
nghiệp các trường Đại học Sư phạm Sài Gòn, Đà Lạt khóa I – 1965:… Lê Văn Hoàng, Huỳnh Tấn Kim Khánh
(ban Việt Hán), Dương Văn Hai (ban Sử Địa), Lê Văn Trinh, Phạm Tấn Phước (ban
Toán), Nguyễn Kim Hoàn (ban Lý Hóa)…” Tiếp theo là một số quy định về tình trạng
quân dịch, lương bổng, thâm niên công vụ và việc phân bổ nhiệm sở.
Trong sáu anh em, Phạm Tấn Phước gốc ở Nha
Trang, năm người còn lại có quê Bến Tre; Nguyễn Kim Hoàn sinh năm 1940, còn lại
đều sinh năm 1942. Hai bạn Dương Văn Hai và Phạm Tấn Phước đã mất từ mười mấy
năm rồi.
Vào 7 giờ 30 sáng ngày 22 - 9 -1965, tất cả
sinh viên tốt nghiệp có mặt tại văn phòng Viện Đại học Sài Gòn (Hồ Con Rùa) để
chọn nhiệm sở theo thứ hạng tốt nghiệp, sinh viên mỗi ban được gọi lên chọn tỉnh
thành mình sẽ dạy. Sự vụ lệnh phân công được ký và trao cho sinh viên ngay lúc
đó. Cầm văn bản này trên tay, tôi thật xúc động. Đây là một loại giấy chứng nhận
vào đời, với nghề nghiệp được xã hội tôn trọng, có đầy đủ nghĩa vụ và quyền lợi
tương xứng và sẽ có tiền bạc phụ giúp những
người thân yêu sau mười sáu năm cố gắng
học hành, thi cử. Tôi nghĩ ngợi: “… Dù ước vọng tuổi trẻ vỏ vàng ít nhiều hôm
nay, chúng ta vẫn đi tìm một màu xanh hy vọng…”. “Ước vọng tuổi trẻ vỏ vàng ít
nhiều…” vì vào khoảng 1965, chiến tranh dần trở nên ác liệt, khói lửa đạn bom
đang phủ mờ bầu trời quê hương. Sau này, ý nghĩ trên hình thành mấy dòng mở đầu
Giai phẩm mùa Xuân Trung học Kiến Hòa
Canh Tuất 1970. Đó là chuyện của năm
năm sau.
Rời
văn phòng Viện Đại học, Lê Văn Hoàng và tôi đón xe đi ngay về thị xã Bến Tre,
trình diện hiệu trưởng Trung học Kiến Hòa lúc đó là anh Huỳnh Phú Hiệp. Trưa
hôm ấy, tôi cố nán lại nhìn ngắm toàn cảnh ngôi trường. Mấy dãy lớp học, từng
cây trồng, hàng rào bên trái và mặt sau
tiếp giáp đường phố, bên phải liền kề
trường tiểu học tỉnh. Trước cổng trường, mặt hồ Chung Thủy xanh trong, thoảng
làn gió nhẹ. Mình sẽ làm việc tại nơi này thật lâu… có khi suốt cả cuộc đời,
tôi nghĩ. Tất cả in đậm trong vô vàn kỷ niệm về ngôi trường yêu dấu này suốt
năm mươi năm dài.
Xin nói thêm, khoảng năm 1950-1951, cạnh hồ
Chung Thủy là khu sở thú và có một hội chợ triển lãm do tỉnh trưởng Bến Tre là
Leroy tổ chức. Khi tôi về , bờ hồ đối diện Trung học Kiến Hòa là trường Đại Đồng
của người Hoa, rồi một nhà hàng nhìn thẳng ra nhà thủy tạ giữa hồ, tiếp đó là
khu cư xá công chức, có nhà của anh chị Lê Văn Trọng - Nguyễn Thị Lan, anh Lê
Văn Trinh, anh Trương Thành Nghĩa,, chị Trần Thị Ất… và nhà người bác của tôi
cho anh chị Phan Hồng Lạc – Lê Thị Lư thuê, thỉnh thoảng tôi có đến thu tiền
nhà. Chị Lư dạy sử địa tại trường năm trước, năm sau anh Lạc về dạy Quốc Văn,
anh cũng tốt nghiệp Đại học Sư phạm, ban Việt Hán trước tôi vài khóa…
(Còn tiếp)
No comments:
Post a Comment