24/07/2015

                              TRƯỜNG XƯA …THƯƠNG NHỚ
                                                                                          HUỲNH TẤN KIM KHÁNH
            (Tiếp theo)  
                                                              
           3. Một lễ phát thưởng còn nhớ mãi
Được tin anh Huỳnh Phú Hiệp sẽ đổi về quê nhà Thủ Thừa, Tân An, anh em giáo sư trẻ chúng tôi liên tiếp hội họp để bầu chọn người thay thế chức vụ hiệu trưởng. Phải là một nhân vật có hoài bão giáo dục, toàn tâm toàn ý lo cho học trò, gần gũi đồng nghiệp, được anh em tín nhiệm và tạo được sự đồng thuận trong hội đồng nhà trường . Đặc biệt, đây phải là người thầy được toàn thể học sinh quý yêu, kính trọng. Sau nhiều lần bàn bạc, anh em đề cử Trần Kim Quế. Anh từ chối: “Mình không phải người gốc Bến Tre…” Nguyễn Văn On hăng hái nói: “ Chúng ta đồng tâm hiệp lực lo cho con em tỉnh nhà. Quế, Diêu hay On này làm hiệu trưởng đều được nhưng thật lòng mà nói, người được học sinh ca ngợi, được phụ huynh tín nhiệm là Quế. Còn tôi … thì không nên. Vì năm ngoái có đánh bài chơi, bị cảnh sát phát hiện. Làm hiệu trưởng là gánh trọng trách, sẽ gặp nhiều trở lực, phải vượt qua những khó khăn – nhất là trong lúc này,  áp lực tỉnh khá nặng, giới quân sự đang nắm quyền…”


Nhiều lần thuyết phục, anh Quế nhận lời. Ngay lập tức, hầu hết anh chị em đồng ký tên đề cử. Xưa nay, chức danh hiệu trưởng một trường trung học phải do giám đốc Nha Trung học, Bộ Giáo dục xét duyệt và phân bổ. Cho nên, đây là một trường hợp đặc biệt. Cuối cùng chúng tôi thật vui khi anh Quế được bổ dụng hiệu trưởng trường Trung học Kiến Hòa.
Sau một thời gian làm việc, anh chị em nhận thấy anh Quế có nhiều phẩm chất đáng quý: ý thức trách nhiệm cao, tận tụy với công việc, rất mực thương yêu học sinh, quý trọng đồng nghiệp, phân công hợp lý, giao việc đúng người và luôn đạt hiệu quả. Chẳng hạn anh Phan Hữu Nghĩa làm Phụ tá giám học, Tổng giám thị học sinh nữ là chị Nguyễn Thị Lan, sau nay anh Huỳnh Thành Công được giao phụ trách các lớp bán công đêm, anh Nguyễn Hữu Khiêm hiệu trưởng trường Phan Tôn, như một phân hiệu của Trung học Kiến Hòa…
 Nhà trường như mang luồng gió mới, đầy sinh khí. Bên cạnh hoạt động chính là giảng dạy, sinh hoạt hiệu đoàn thật khởi sắc, có tác động giáo dục tập thể, giúp các em  tích cực tham gia đời sống thực tế và dần dần phát huy năng lực cá nhân.
Cuối năm học 1966 -1967, mọi quan tâm của chính quyền tỉnh và phụ huynh học sinh đều tập trung vào kết quả giảng dạy. Với tinh thần trách nhiệm cao, sự cố gắng không ngừng của mọi thành viên trong hội đồng giáo dục, nhà trường đã đạt những kết quả giảng dạy thật đáng khích lệ. Một lễ tổng kết năm học và phát thưởng học sinh được chuẩn bị chu đáo và tổ chức thật long trọng. Tôi được giao soạn và đọc bài diễn văn trong lễ phát thưởng này.
Buổi lễ bắt đầu lúc 7 giờ 30 sáng ngày 2 - 6 -1967 tại rạp Lạc Thành, trung tâm thị xã Bến Tre. Sức chứa rạp hát rất lớn, sân khấu thật rộng, được trang hoàng rực rỡ, thân hào nhân sĩ, ông tôi cũng được mời, áo dài khăn đen, ngồi cạnh trung tá tỉnh trưởng, tiếp theo là các quan chức của tỉnh và đại diện phụ huynh học sinh nhà trường. Hội trường đông nghẹt học sinh được khen thưởng- ngồi ở mười mấy hàng ghế sau. Sau lễ chào cờ, hiệu trưởng đọc lời cảm ơn tất cả quan chức,cơ quan đã giúp nhà trường hoàn thành nhiệm vụ năm học.
Sau lời giới thiệu, tôi bước lên sân khấu. Lượng thính giả đầy ắp gợi một cảm giác vừa mơ hồ, vừa rõ nét. Đây không là lớp học với khoảng 50 học sinh hàng ngày mà số cử tọa đông gấp mười lần, không phải đối tượng mình truyền đạt tri thức mà là những người có chức có quyền, những bậc chú bác đáng kính trọng. Thầm xác định lần nữa nhiệm vụ thay mặt hội động nhà trường, trong tâm thế của người trí thức vận hội mới trong lãnh vực giáo dục, tôi bắt đầu trình bày, khi thuyết minh nội dung, lúc  như bày giãi tâm tình.
Trong nửa phần đầu, tôi thưa chuyện với người lớn:
“… Đứng vào sinh hoạt chung của quốc gia, dù được xem là cần thiết sau những ngành khác, chúng tôi cũng mạo muội nói lên vài cảm nhận. Mục đích chủ yếu của giáo dục là đào tạo những công dân tốt, hữu ích cho quốc gia. Nhưng giáo dục không chỉ nhằm đem lại một mớ tri thức cho thanh thiếu niên. Tổng số những kiến thức dù phong phú, súc tích đến đâu cũng trở thành vô giá trị nếu chúng bị làm dùng phương tiện thực hiện những việc trái với lẽ phải và đạo đức. Sự đổ vỡ của khoa học khi không có sự soi sáng của lương tâm không chỉ là một lời xác nhận của cổ  nhân, mà chính là một thực tại ngày càng hiện dần trong thế giới hiện tại.
“Do đó chúng tôi, những người mang trên vai sứ mạng giáo dục thanh thiếu niên, sẽ cảm thấy thiếu sót, không nói là bị xâu xé bởi một mặc cảm phạm tội nếu chỉ đem lại cho những người tuổi trẻ ấy một số kiến thức chung chung. Cần đào luyện cho học sinh ý thức đạo đức, tình cảm tốt đẹp và tinh thần trách nhiệm để có thể đảm trách nhiệm vụ của lớp người đi trước.
“Chúng tôi chấp nhận rằng sự nhầm lẫn khoa học và đạo đức là một sai lầm trong quá khứ mà nhiều người đã phạm phải nhưng cho rằng đạo đức và khoa học là trái ngược nhau, lại đưa ta đến chỗ cực đoan. Do đó, điều tất yếu đầu tiên để người tuổi trẻ ý thức trọn vẹn trách nhiệm, biết đem tri thức khoa học vận dụng vào đời sống là ý thức đạo đức và tình cảm. Chính ý thức đạo đức theo dõi, kiểm soát, thúc đẩy hành động con người đến cứu cánh thiện. Ý thức đạo đức là nguồn gốc của chế tài tinh thần. Sự có mặt của nó rất cần thiết. Còn việc hình thành và phát triển tình cảm tốt lại giữ một vai trò quan trọng. Thanh thiếu niên sẽ có được tình cảm cao đẹp như tình gia đình, tình yêu nhân dân và lòng yêu nước.
“Bên cạnh đó, chúng tôi còn rèn luyện thanh thiếu niên một tinh thần trách nhiệm để làm hành trang cho cuộc sống. Tinh thần trách nhiệm ở đây cần sáng suốt, thành thật. Sự sáng suốt giúp cho họ biết rõ hoàn cảnh sống, biết năng lực, ưu điểm khuyết điểm của bản thân để thực hiện trách nhiệm mong muốn.  Thành thật chính là tận tụy với nhiệm vụ, chung thủy với lý tưởng. Hơn nữa, sự thành thật trong khi thực hiện nhiệm vụ làm cho người trách nhiệm trở thành người có tinh thần trách nhiệm.
“Chúng tôi nghĩ rằng những nhiệm vụ giáo dục nặng nề đó là những trái chín mà không phải giơ tay là hái được. Nó đòi hỏi sự luyện tập bền bỉ dành cho lớp thanh thiếu niên hằng ngày cắp sách đến trường hôm nay. Xin thành thật thưa rằng chúng tôi không thể hoàn thành nhiệm vụ giáo dục theo ý nghĩa trên, nếu không có sự hợp lực của toàn thể phụ huynh học sinh, của mọi lớp người trưởng thành trong xã hội, nhất là của quý vị. Những ưu tư đó, xin quý vị chia sẻ với chúng tôi.”

Trong nửa phần sau bài diễn văn, tôi nhắn nhủ các em học sinh:
“Trước hết, thầy thay mặt các thầy cô chia sẻ niềm vui với các em. Một năm học dài trong chuyên cần học tập, tiến bộ về đạo đức đã đem đến cho các em một kết quả rực rỡ. Lát nữa đây, các em sẽ nhận được những phần thưởng do quý quan khách hoặc các thầy cô trao tặng. Giá trị tinh thần của những phần thưởng ấy sẽ khuyến khích các em trên bước đường học tập. Mọi người đã từng lo lắng mọi việc cho các em, hôm nay rất sung sướng thấy các em xứng đáng là những học sinh ưu tú về học tập, đạo đức mà bất cứ học sinh nào cũng có ý hướng tiến tới.
“Hơn nữa, từ một năm nay, các em luôn được khuyên bảo cố gắng học hành, được nhắc nhở tinh thần kỷ luật tự giác và các em cũng đã tham dự trực tiếp, đầy đủ vào những sinh hoạt của nhà trường. Những hình ảnh cảm động làm mọi người nhớ mãi là hình ảnh một học sinh ngồi hàng giờ dưới ánh đèn để giải một đề toán, làm một bài văn, hình ảnh một em bước nhanh đến trường đúng giờ dù ướt sũng trong cơn mưa giông, hình ảnh một học sinh cố đến mức thắng cuối cùng trong một cuộc tranh giải mang lại vinh dự cho nhà trường. Những hình ảnh đó, cộng với nhiều hình ảnh khác đã thể hiện quyết tâm học tập, tinh thần kỷ luật, niềm hãnh diện khi mang lại màu cờ chiến thắng cho nhà trường và sau này, cho xứ sở.
“Chắc các em cũng từng nghe: “Số phận của một dân tộc không phải do sự định đoạt ở chiến trường mà chính là trên ghế nhà trường.” Trên ghế nhà trường, chỉ có các em. Chính các em sẽ nắm số phận dân tộc. Đây không phải là lời ca tụng quá đáng đâu mà là một sự thật mà các em cần nhận thức rõ và ngay từ bây giờ, cố gắng trau dồi tri thức, phát triển đạo đức và tình cảm, tinh thần trách nhiệm để trong tương lai, các em sẽ hành động. Nhà trường hôm nay cung cấp mọi kiến thức cho các em. Lịch sử, địa lý mở rộng trí tuệ, cho các em tinh thần đoàn kết, lòng yêu nước. Văn chương hình thành những tình cảm cao đẹp nhất của con người giữa nhân loại. Khoa học toán và khoa học thực nghiệm rèn luyện sự thành thật, tính kiên nhẫn, óc quan sát, phê bình. Thể thao và thể dục đào thãi sự yếu đuối, thói lười biếng. Sinh hoạt học đường là một sinh hoạt xã hội thu nhỏ, trong đó các em có dịp thảo luận, nhận lãnh trách nhiệm cá nhân giữa tập thể, chuẩn bị những nhiệm vụ to tát hơn khi các em trưởng thành…”
Tôi trích lại gần như nguyên văn, các bạn có thể hình dung một bài phát biểu cuối năm trong dịp phát thưởng học sinh cách nay nửa thế kỷ: một chút sách vở nhưng thật chân tình.
Tiếp theo là những đợt phát thưởng xen kẽ các màn trình diễn văn nghệ học sinh. Sau mỗi lần xướng danh, từng em lần lượt bước lên sân khấu. Có em rạng rỡ nét mặt, có em ngỡ ngàng nhìn xuống đám đông, lo lắng… làm mọi người vừa thú vị, vừa thương yêu. Phần thưởng danh dự toàn trường gồm một chồng từ điển và sách vở cao nghệu. Từng hồi vỗ tay vang dội. Cảm động hơn là cô giáo xướng danh có khi phải phụ bưng bê phần thưởng quá nặng cho một em học trò nhỏ thó. Những màn đơn ca, tốp ca, múa hát rộn rã vang lên, đặc biệt là đại hợp xướng trường ca “Quang Trung” do anh Lê Văn Hậu và hơn 40 em tập luyện công phu từ tuần lễ trước: bốn hàng nam nữ học sinh dàn ngang sân khấu, từ thấp đến cao, thật huy hoàng dưới ánh đèn rực rỡ. Hợp xướng rền vang, khi trầm hùng lúc cao vút, minh họa cuộc tiến quân thần tốc của Quang Trung hoàng đế trong chiến dịch Đống Đa, quét sạch hơn hai mươi vạn quân Thanh xâm lược ra khỏi bờ cõi… có lẽ  làm rung động con tim mọi người. Phải chăng thầy trò chúng tôi đã góp phần nâng cao tinh thần dân tộc, nung nấu lòng yêu nước, đọc được qua những ánh mắt long lanh, bao gương mặt rạng ngời của từng từng lớp lớp thanh thiếu niên đang ngồi dưới kia, trong dịp lễ năm ấy ?
Cuối buổi lễ, một phụ huynh học sinh nhận xét: “ Khá lắm, một hiệu trưởng mới, một tập thể giáo sư trẻ, một năm giảng dạy đạt thành quả tốt đẹp thế này, tương lai trường ta đáng mừng xiết bao!” Lời nói làm tôi xúc động vô vàn, dường như hơn những tràng vỗ tay vang dội hội trường.

                                                                                                                (Còn tiếp)

15/07/2015

            
                        TRƯỜNG XƯA…THƯƠNG NHỚ

                    HUỲNH TẤN KIM KHÁNH
            (Tiếp theo)
2. Năm dạy học đầu tiên         
Tuần lễ sau, tôi được phân công giảng dạy. Thầy giám học Nguyễn Duy Oanh giao cho tôi 4 lớp, một phiếu phân phối chương trình môn Quốc văn cho 3 lớp đệ nhị và một phiếu cho 1 lớp đệ tứ. Hồi đó, mỗi giáo sư (danh xưng thầy cô bậc trung học trước 1975) tự phân  lịch giảng dạy bộ môn theo chương trình của Bộ Giáo dục, đúng từng chương nhưng có quyền chọn bài giảng với thời lượng hợp lý, mục tiêu giảng dạy là giúp học sinh đạt các yêu cầu về (1) tư tưởng đạo đức, (2) kiến thức và (3) hành vi (vận dụng được vào cuộc sống).

Chẳng hạn trong nửa tháng 9 và tháng 10 đầu năm học, tôi giảng về tác giả Nguyễn Công Trứ và văn chương với ba khuynh hướng: (1) Cảnh nghèo, dạy 3 bài Than nghèo, Đi thi tự vịnh, Hàn nho phong vị phú, (2) Chí làm trai, chọn 3 bài Chí làm trai, Chí nam nhi, Kẻ sĩ, (3) Nhàn lạc, với 3 bài Thoát vòng danh lợi, Chữ nhàn, Bài ca ngất ngưởng.

Được thầy giám học rồi hiệu trưởng duyệt, tôi bắt đầu dạy theo lịch đã soạn. Dù trước đây có dạy kèm để kiếm tiền lúc học đại học và nhiều lần được thực tập tại các trường trung học công lập ở Sài Gòn trong mấy năm  Đại học Sư phạm, tôi vẫn không nén được xúc động trong giờ lên lớp đầu tiên. Đó là lớp đệ nhị B2. Đi dọc hành lang, đến cửa lớp, tôi chợt bị một giám thị chặn lại, sau này mới biết là cô Sâm. Cô chỉ vào mặt tôi: “Em này, sao không đứng vo hàng?”. Học sinh xếp trước lớp mủm mỉm cười. “ -Thưa cô, tôi phụ trách lớp này, dạy Quốc văn.” Cô Sâm tròn mắt rồi nhẹ giọng: “Xin lỗi thầy!”

Dạy Văn tại trường đến năm 1973, tôi được đổi về Bộ Giáo dục. Tám năm gắn bó với trường, xin rút ra những cảm nhận:
           
            “Phần nhiều anh chị em chúng tôi là những thanh niên vừa ra trường, luôn đem hết nhiệt  tình và năng lực giảng dạy con em tỉnh nhà. Trên lớp và qua những sinh hoạt nhà trường, chúng tôi giáo dục đạo đức, nhân cách, truyền đạt tri thức khoa học và rèn luyện kỹ năng các môn học phổ thông theo từng cấp lớp, với tất cả lương tâm và trách nhiệm. Còn nhớ lúc bấy giờ, học sinh chỉ kém chúng tôi từ 5 đến 10 tuổi đời. Các em say sưa đón nhận những lời dạy bảo về “tâm” để hình thành những hạt ngọc tinh thần và tình cảm, đồng thời  hấp thụ bao tri thức, về ‘trí” để chuẩn bị hành trang vào đời một cách tự tin, bằng năng lực của chính mình”. (“Trường Trung học Công lập Bến Tre qua các thời kỳ (1954-2014)”. Hồ Chung Thủy, Tập 3, trang 16. NXB Hội Nhà Văn 1.2015).

Thật vậy, học trò lớp đệ nhị vào khoảng 17 tuổi, còn thầy mới hơn 23 tuổi đời.  Hằng ngày, bao khuông mặt thanh tú, những ánh mắt say sưa theo từng lời giảng làm  tôi vô cùng xúc động. Làm thế nào để bài giảng của mình đi vào từng con tim, từng khối óc của các em một cách ngọt ngào mà sâu thẳm hơn…Ôi những giờ giảng văn từ năm mươi năm cũ!

         Còn nhớ vào đầu năm học, dạy Hàn nho phong vị phú của Nguyễn Công Trứ: Đầu giường tre mối giũi quanh co; Góc tường đất trùn lên lố nhố, tôi miêu tả cảnh nhà tranh vách đất với những hình ảnh thật cụ thể, mối giũi giường tre thế nào, tường đất trùn lên thế nào, thể hiện cảnh cùng khốn ra sao. Có em cúi đầu buồn bã, như cố nén tiếng thở dài. Có thể em đã trải qua cảnh nhà như thế.

          Với bài Kẻ sĩ của Nguyễn Công Trứ dài 31 câu, nặng nề điển cố, tôi phải giảng từng câu mới giúp các em hiểu được chí làm trai của tác giả. Chẳng hạn hai câu: Cầm chính đạo để tịch tà cự bí – Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên: Nắm vững đạo lý chính thống để trừ điều gian tà, ngăn điều bất chính – Đẩy lùi làn sóng dữ (bạo ác) và cản trăm dòng sông (tà ngụy). Có lẽ các em dần dần nhận thức được vai trò của người trí thức qua những câu chữ vừa khó hiểu vừa xa lạ  nầy trong kinh điển nho gia hơn hai trăm năm trước. Tôi thầm nghĩ các em sẽ gạn đục khơi trong, chắt lọc phần tích cực của tư tưởng người xưa để vận dụng vào cuộc sống sau nầy.

Đến bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, liên 24, 25:
Ôi thôi thôi!
Chùa Tôn Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; Đồn Lang Sa một khắc trả đặng hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.

           Tôi giảng: “Người nghĩa sĩ hy sinh thì mối hờn được trả, tấm lòng son sáng mãi gửi lại bóng trăng rằm và phận bạc của họ cũng sẽ phôi pha, trôi theo dòng nước đổ. Nhưng tác giả còn nghĩ đến người thân của họ. Hình ảnh bà mẹ già mà ngọn đèn khuya leo lét soi mái tóc bạc trong lều đang thê thiết khóc con, hình ảnh người vợ yếu hớt hải chạy tìm chồng trong cơn bóng xế dật dờ trước ngõ đã cực tả nỗi bi thương. Ngọn đèn khuya còn tượng trưng cho tuổi già không nơi nương tựa, leo lét chợt tắt giữa đêm tối cuộc đời. Cơn bóng xế còn tượng trưng cho cuộc đời người góa phụ sẽ cô độc lênh đênh trên dòng đời xuôi ngược. Tác giả đau đớn, não nùng và nỗi đau đớn não nùng ấy như lay động cả hồn người. Người đọc càng cảm phục hơn khi chợt nhớ lại những hình ảnh, những cảm xúc đó xuất phát từ con tim và trí tưởng của một nhà thơ mù.”  Cả lớp cúi đầu, có em rơm rớm nước mắt.

         Đến tác giả Nguyễn Khuyến, hai câu kết trong bài Thu vịnh: Nhân hứng cũng vừa toan cất bút – Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào: “Khi lui về vườn Bùi chốn cũ, Nguyễn Khuyến cũng muốn làm một ông Đào ngày ngày vui thú điền viên. Nhưng làm sao sánh được với Đào Tiềm,  không phải vì tài thơ mà vì khí tiết. Danh sĩ đời Đông Tấn ấy đã từng than rằng ba đấu lương đâu đáng để cúi gãy lưng, nên treo ấn từ quan sau một tiếng thở dài cảm khái. Còn Tam nguyên Yên Đổ là kẻ Bạc chửa thâu canh đã chạy làng (Tự trào), bất lực, từ quan khi toàn bộ đất nước rơi vào tay giặc, cho nên khí tiết gì đây mà tự ví với bậc cao sĩ. Hơn nữa, ngày xưa Đào Tiềm sống ung dung tự tại, còn Nguyễn Khuyến giờ đây đến thở hít không khí cũng không được tự do trong cảnh nước mất dân khổ (Xuân về ngày loạn còn lơ láo – Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ - Ngày xuân răn con cháu), thì thi phú phỏng có ý vị gì?
         Cho nên, dù mùa thu có đem đến nào bầu trời xanh với làn gió hắt hiu, nào tầng khói phủ với bóng trăng thanh làm hồn thơ rung động, muốn gởi cùng chùm hoa trước giậu đôi lời tâm sự, nhưng nghĩ lại cảnh tình, lòng mình, sao cho khỏi phân vân ấp úng. Tình ý sâu sắc và chân thành ở nhãn tự thẹn:
                              Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.”

         Cả lớp lặng tờ, như lắng lòng vào mối cảm thụ của người xưa.   
        
         Còn nhiều ví dụ nữa, thật không kể xiết.



                                                                                                                                 (Còn tiếp)
   Khởi đăng hồi ký của thầy Huỳnh Tấn Kim Khánh.

TRƯỜNG XƯA… THƯƠNG NHỚ
HUỲNH TẤN KIM KHÁNH
Mấy đoản văn này không gọi là hồi ký, thể loại văn học vốn mang tính nghệ thuật, đậm chất văn chương. Chỉ là kể chuyện quá khứ, những hồi tưởng trong tám năm (1965-1973), gần nửa thế kỷ qua. Tất cả thoạt ẩn trong lớp sương mờ của tuổi đời đã luống, thoạt hiện trong niềm vui bạn bè, thầy trò ở những lần họp mặt, mấy buổi về thăm lại trường xưa. Ngại ngần khi cầm bút vì nghĩ có gì đáng nói đâu. Nhưng tất cả như chơi vơi, bềnh bồng trong không gian kỷ niệm, chẳng quay quắt tâm hồn nhưng không hề nhạt nhòa trong ký ức. Phải giãi bày, dù có chuyện nhớ có điều quên, có việc đúng có việc không đúng, cũng có tâm sự giấu chặt trong tim. Bạn có thể bận trí, phiền lòng…. Xin hãy cảm thông.


1.Về trường
Giữa năm 1965, tôi tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài Gòn. Giáo sư Trần Ngọc Ninh, Tổng ủy viên Văn hóa - Xã hội kiêm Ủy viên Giáo dục ký sự vụ lệnh 1186 – GD/NV/2A/SVL ngày 10-8-1965: “Nay tạm thời bổ dụng giáo sư trung học đệ nhị cấp hạng 4, chỉ số 470, 229 sinh viên có tên sau đây tốt nghiệp các trường Đại học Sư phạm Sài Gòn, Đà Lạt khóa  I – 1965:… Lê Văn Hoàng, Huỳnh Tấn Kim Khánh (ban Việt Hán), Dương Văn Hai (ban Sử Địa), Lê Văn Trinh, Phạm Tấn Phước (ban Toán), Nguyễn Kim Hoàn (ban Lý Hóa)…” Tiếp theo là một số quy định về tình trạng quân dịch, lương bổng, thâm niên công vụ và việc phân bổ nhiệm sở.
Trong sáu anh em, Phạm Tấn Phước gốc ở Nha Trang, năm người còn lại có quê Bến Tre; Nguyễn Kim Hoàn sinh năm 1940, còn lại đều sinh năm 1942. Hai bạn Dương Văn Hai và Phạm Tấn Phước đã mất từ mười mấy năm rồi.
Vào 7 giờ 30 sáng ngày 22 - 9 -1965, tất cả sinh viên tốt nghiệp có mặt tại văn phòng Viện Đại học Sài Gòn (Hồ Con Rùa) để chọn nhiệm sở theo thứ hạng tốt nghiệp, sinh viên mỗi ban được gọi lên chọn tỉnh thành mình sẽ dạy. Sự vụ lệnh phân công được ký và trao cho sinh viên ngay lúc đó. Cầm văn bản này trên tay, tôi thật xúc động. Đây là một loại giấy chứng nhận vào đời, với nghề nghiệp được xã hội tôn trọng, có đầy đủ nghĩa vụ và quyền lợi tương xứng và sẽ có  tiền bạc phụ giúp những người thân  yêu sau mười sáu năm cố gắng học hành, thi cử. Tôi nghĩ ngợi: “… Dù ước vọng tuổi trẻ vỏ vàng ít nhiều hôm nay, chúng ta vẫn đi tìm một màu xanh hy vọng…”. “Ước vọng tuổi trẻ vỏ vàng ít nhiều…” vì vào khoảng 1965, chiến tranh dần trở nên ác liệt, khói lửa đạn bom đang phủ mờ bầu trời quê hương. Sau này, ý nghĩ trên hình thành mấy dòng mở đầu Giai phẩm mùa Xuân Trung học Kiến Hòa Canh Tuất 1970.  Đó là chuyện của năm năm sau.
  Rời văn phòng Viện Đại học, Lê Văn Hoàng và tôi đón xe đi ngay về thị xã Bến Tre, trình diện hiệu trưởng Trung học Kiến Hòa lúc đó là anh Huỳnh Phú Hiệp. Trưa hôm ấy, tôi cố nán lại nhìn ngắm toàn cảnh ngôi trường. Mấy dãy lớp học, từng cây trồng, hàng rào bên trái và  mặt sau tiếp giáp đường phố, bên phải liền  kề trường tiểu học tỉnh. Trước cổng trường, mặt hồ Chung Thủy xanh trong, thoảng làn gió nhẹ. Mình sẽ làm việc tại nơi này thật lâu… có khi suốt cả cuộc đời, tôi nghĩ. Tất cả in đậm trong vô vàn kỷ niệm về ngôi trường yêu dấu này suốt năm mươi năm dài.
Xin nói thêm, khoảng năm 1950-1951, cạnh hồ Chung Thủy là khu sở thú và có một hội chợ triển lãm do tỉnh trưởng Bến Tre là Leroy tổ chức. Khi tôi về , bờ hồ đối diện Trung học Kiến Hòa là trường Đại Đồng của người Hoa, rồi một nhà hàng nhìn thẳng ra nhà thủy tạ giữa hồ, tiếp đó là khu cư xá công chức, có nhà của anh chị Lê Văn Trọng - Nguyễn Thị Lan, anh Lê Văn Trinh, anh Trương Thành Nghĩa,, chị Trần Thị Ất… và nhà người bác của tôi cho anh chị Phan Hồng Lạc – Lê Thị Lư thuê, thỉnh thoảng tôi có đến thu tiền nhà. Chị Lư dạy sử địa tại trường năm trước, năm sau anh Lạc về dạy Quốc Văn, anh cũng tốt nghiệp Đại học Sư phạm, ban Việt Hán trước tôi vài khóa…



                                                                                                                      (Còn tiếp)