14/07/2013

Đám giỗ nhà quê
            Phan Lữ Hoàng Hà

            Miếng giồng cát phía trước nhà bà tôi có trồng nhiều cây mãng cầu ta. Mãng cầu ta có hai loại là mãng cầu bở và mãng cầu dai. Trên một giồng cát, mãng cầu dai thường có ít hơn mãng cầu bở nên khi hái trái đem chợ bán, mãng cầu dai có giá hơn. Điều ngộ nghĩnh của cây mãng cầu là lúc trời nắng như đổ lửa, mọi thứ cây khác đều héo úa, xơ xác thì vào khoảng tháng 3 âm lịch, cây mãng cầu thay lá xanh um, thời điểm báo hiệu mùa mưa sắp đến. Khi trời sa mưa, cây mãng cầu lần lượt trổ bông thật sung rồi kết trái, kéo dài cho đến gần Tết Nguyên đán. Mãng cầu ta lúc này là loại trái cây tương đối sang vì ngoài chợ đâu có nhiều loại trái cây Tây Tàu như bây giờ.


            Đi thăm trái rồi hái trái mãng cầu thuộc kinh nghiệm dân gian. Thường thăm vào buổi sáng hoặc buổi chiều, tức có khoảng cách thời gian mới thăm một lần. Đến một gốc mãng cầu, nhìn lên, thấy trái nào nở gai to, ta đưa cây sào lên trái và gõ vào đó vài cái. Cứ nghe bịch, bịch, có cảm giác trái hơi mềm, là trái sắp chín còn nghe cưng, cưng, tức  trái còn cứng thì để thêm vài ngày nữa. Lúc đến hàng mãng cầu giáp ranh đất với người hàng xóm, thấy có hai bụi bông điệp, một bụi bông điệp đỏ và một bụi bông điệp vàng, mọc vượt cao trên đám cỏ um tùm, sóng sượt, tôi hỏi bà tôi: “Mấy cây bông điệp này mọc hoang hay hồi trước bà trồng?”. Bà tôi nói do bà trồng, để dành, vì trong năm ở nhà có nhiều đám giỗ. Mà không phải đến dịp đám giỗ mới bẻ bông điệp chưng bàn thờ, những rằm lớn trong năm, tôi vẫn thấy bà tôi chưng bông điệp lẫn bông trang đỏ trên bàn thờ Phật và ba bàn thờ tổ tiên, ông bà ở phía dưới. Mùi nhang và mùi hương bông điệp thoang thoảng suốt ngày, nhất là vào ban đêm. Còn mãng cầu ta chưng trên bàn thờ là thứ trái cây đặc sản.
            Đám giỗ là dịp con cháu tựu về. Tôi thích nhất là có đám giỗ lúc trời vừa mưa vài đám, đất, cỏ còn bốc mùi ngai ngái cùng tiếng côn trùng tranh nhau cất tiếng về đêm. Lại có tiếng dế mèn thao thức trong đêm khuya khoắt. Tiếng con vạc sành réo rắt bên vạc gài (nẹp tre đươn lại, kết thành một miếng vách) hồi đầu hôm.
            Đám giỗ diễn ra trong thời điểm này cho tôi nhiều kỷ niệm khó quên. Buổi sáng, mấy đứa nhỏ tụi tôi đi bẻ bông điệp, bông trang ở ngoài giồng đem vô cho người lớn chuẩn bị chưng bông vào lục bình. Nơi bàn thờ giữa là một lục bình lớn, hai bàn thờ hai bên là hai lục bình nhỏ hơn nhưng bằng nhau. Sau đó, tụi tôi theo người lớn, chia nhau đi mượn bàn ghế. Trưa ăn bánh ít do bà tôi gói nóng hổi, còn bốc khói. Lúc chiều chiều ông tôi chuẩn bị dầu lửa, Alcol rồi đốt thử cái đèn măng sông. Thoát ra từ ánh sáng đèn măng sông còn tỏa ra làn khói đen là tiếng kêu khè khè, ban đầu dồn dập rồi lần lần ánh sáng như ngả màu xanh, trong veo trong vắt. Dù đốt thử nhưng chúng tôi tặc lưỡi xuýt xoa vì trong năm ngày tư ngày tết ông tôi mới đốt đèn măng sông một lần. Khi trời chạng vạng tối, chúng tôi lấy cứt bò cứt trâu khô…un bù rầy. Khi khói un bốc lên, mùi bay xa, đám bù rầy lần lượt lao đến, xòe xòe sà cánh xuống gần khói un. Người lớn thì dùng chà cây trăm bầu huơ bù rầy, đám nhỏ tụi tôi dùng chổi tàu cau nhưng huơ cũng ít khi trúng chúng, có lẽ vì chổi thấp hơn. Đêm đến, nơi hàng ba, chúng tôi chia nhau làm hai phe, lấy ghế đẩu chất cao làm đồn phòng thủ. Bên này bắn qua bên kia bằng dây thun với bì giấy chứ không dám nghĩ tới bắn bì bằng bì u du hay cốc kèn vì hồi nhỏ nghe mấy anh tuổi lớn hù: u du mà ngăm vào nước đái, bắn trúng vào da là…thúi thịt!


            Nhưng ấn tượng nhất là khi đi mượn bàn ghế vòng vòng trong xóm. Đến một ngôi nhà nào đó, cứ nói: “ Tôi là cháu của ông Năm…ngày mai ở nhà có đám giỗ…” thì chủ nhà vui vẻ cho mượn ngay dù hầu hết mọi nhà đều chỉ có một cái bàn tròn và dăm ba chiếc ghế đẩu để ăn cơm. Rất nhanh, cứ lật ngược bàn, ghế lên rồi ghi tên hay đánh dấu bằng phấn trắng, xỏ xâu ghế vào cây tre hoặc vác chồng lên nhau năm, bảy chiếc ghế khiêng về. Cũng giống như tại nhà ông bà tôi, sau khi cho nhà khác mượn bàn ghế xong, vài buổi cơm sau đó người nhà phải dọn ra ăn cơm trên bộ ván hoặc xúc một tô ra phía trước nhà ngồi ăn nhưng không buồn bực gì. Hồi đó đâu có dịch vụ cho mướn bàn, ghế như bây giờ…
            Lúc này, nước đá rất hiếm, thường không mua được. Muốn mua nước đá phải đi xa cả cây số, phải mua từ một góc tư trở lên, nước đá vùi trong trấu và quấn thêm bên ngoài miếng lá chuối nhưng đem về đến nhà thì nước đá tan nhiều.
Những lão nông đi đám giỗ khá sớm, các ông thường mặc áo bà ba trắng, chỉ vài người mặc áo dài đen. Người ta nói những ông mặc áo dài đen là đang có chức sắc trong đình, miễu. Những ông đó đến đám giỗ thường xách theo cái giỏ (bằng tre trúc hoặc bằng mủ) với năm, bảy chai nước ngọt trong đó, chứ không kết này, thùng nọ như bây giờ. Nước ngọt chung qui có hai hiệu: Con Cọp và Phương Toàn (con nai). Về Con Cọp có: xá xị, nước cam, Limonade (nước màu trắng) và bạc hà (nước màu xanh). Có người mua chỉ một thứ nước ngọt là xá xị hoặc nước cam. Có người chịu khó hơn, chắc để cho thêm…sinh động, họ mua ở tiệm hai chai xá xị, hai chai nước cam, hai chai Limonade và duy nhất chỉ một chai bạc hà. Đám nhỏ tụi tôi vẫn thích nhất chai bạc hà. Tôi liên tưởng với ý muốn: “Phải chi mấy ông cụ này đem đến các chai nước ngọt hồi hôm, ta bỏ vào lu nước, chắc trưa lại, nó cũng hơi lạnh lạnh như có nước đá”. Rồi, nghĩ ngợi lung tung: “ Không biết ngày xưa, khi chưa có nước đá, mấy ông vua dự yến tiệc, nhắp nhiều rượu rồi sẽ giải nhiệt bằng thứ nước giải khát gì? Nước đá giải nhiệt nhanh nhưng chưa chắc bằng…nước nhãn nhục, sâm nhung…”, tôi suy diễn tiếp. Và tại đám giỗ, chủ lực vẫn là món hủ tiếu xào với giá, hẹ. Trong đám giỗ người rất đông, ồn ào nhưng ngoài sân nhà rất rộng thoáng, chỉ thấy vài chiếc xe đạp, chắc chủ nhân của nó ở xa lắm, đến viếng người thân. Còn hiện nay, mỗi người một chiếc Honda. Nhà có tổ chức đám này đám nọ mà không có sân cho khách để xe, vất vả lắm. Và đặc biệt nhất là, ai cũng nấn níu chờ để lấy…vỏ chai vì đã thế chân ở tiệm…

            Giờ đây hoa, trái bóng loáng, rực rỡ tràn ngập ngoài chợ đã đẩy lùi những trái mãng cầu ta, những nhánh bông điệp, chiếc bàn tròn, cái ghế đẩu, chai nước ngọt thiếu nước đá… về miền quá khứ xa xăm. Bây giờ, đám giỗ xong, nhiều trái bom, trái lê còn thừa lại chừng một tháng nhưng trái vẫn tươi chong. Ghê thiệt!

Bà mẹ quê.

03/07/2013

Thăm người học trò cũ



            Huỳnh Nguyên Khang

            Trang trại Anh Mỹ nằm gần sông Bé thuộc xã Hiếu Liêm, huyện Tân Uyên, Bình Dương. So với ĐBSCL, nơi đây là vùng đất tương đối cao, rộng thoáng, ánh nắng mặt trời chói chang. Tôi hỏi anhTrần Minh Mẫn, chủ trang trại Anh Mỹ:"Hàng năm, trang trại này thu hoạch tính ra tiền chừng bao nhiêu?”. Anh Mẫn đáp thật chậm rãi:“Doanh thu cho một hecta cây có múi trong giai đoạn thu hoạch đạt từ 500 triệu đồng trở lên”. Tôi khá giựt mình trước khi tìm hiểu nội lực của trang trại này.

Anh Trần Minh Mẫn (giữa)

            “ Đem chuông đánh xứ người”
            Một ngày cuối tháng 4-2013, thầy Trương Thọ Lương rủ chúng tôi – những cựu học sinh Trường THCL Kiến Hòa lên thăm anh Trần Minh Mẫn trên tỉnh Bình Dương. Anh Mẫn hiện là chủ trang trại Anh Mỹ, là học trò của thầy Lương hồi thầy còn dạy tại huyện Mỏ Cày.
Đến nơi, anh Mẫn dẫn chúng tôi luồn sâu vào trang trại. Trên đường đi, chúng tôi nhảy qua nhiều rãnh đất phân lô đào sâu chừng 1 mét, ngang khoảng 80 cm và phải tránh nhiều cây nước tự động đang xoay tưới bên những gốc cây bưởi da xanh, cam quýt. Anh Mẫn nói: “Trước năm 1999 nơi đây là đất hoang hóa. Tôi và anh Lương Văn Ấu, cử nhân kinh tế, hợp tác đầu tư xây dựng nên trang trại này. Anh Ấu là người rất nhiệt tình, giỏi giang và rất nhiệt tình với trang trại…Trước hết, tụi mình ra xem một trong những cây bưởi da xanh trồng sát sông Bé mà Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Minh Châu, Viện trưởng Viện nghiên cứu cây ăn quả miền Nam vừa đến thăm. Ông đánh giá đó là một gốc bưởi da xanh gạo cội tại miền Nam – anh Mẫn chỉ tay vào cây bưởi đó, tiếp lời – Cây bưởi da xanh này đã 14 tuổi. Hàng năm, chỉ riêng cây bưởi này, trang trại thu hoạch trên 20 triệu đồng”. Tôi lấy gang tay do thử gốc bưởi, úi trời, bề hoành của gốc bưởi hơn 6 gang tay. Trong lúc tôi đang ngơ ngác trước không gian xanh nơi đây thì anh Mẫn cho biết thêm: “Trang trại Anh Mỹ rộng 50 hecta, 25 hecta chúng tôi trồng bưởi da xanh còn lại 25 hecta trồng cam và quýt. Một gốc cam, quýt trồng đúng qui cách, đạt khoảng 5 - 6 năm tuổi trở lên, có thể cho thu hoạch khoảng  200kg/ năm”.
            Tôi hỏi về đầu tư phân bón và hệ thống tưới của trang trại. Về phân bón, anh Mẫn cho biết chi 2 tháng khoảng 1 tỷ đồng gồm 600 triệu đồng phân vô cơ, 400 triệu đồng phân hữu cơ. Riêng về hệ thống tưới, anh Mẫn chỉ tay bao quát trang trại nói: “Ống dày đặc âm dưới lòng đất, đầu tư tính ra khoảng 60 triệu đồng/hecta. Tụi này có đặt một trạm bơm nước, sử dụng điện 3 pha trên sông Bé, cách đây chừng 2 km, tưới cho cả trang trại 50 hecta. Vào mùa khô, cứ một, hai ngày các cây nước sẽ xoay vòng tưới đều các gốc cây ăn trái.Toàn bộ lưới điện 3 pha do chính quyền Bình Dương tài trợ, chi phí gần 1 tỷ đồng cách đây 6 năm”.


            Nhưng điều thú vị hơn là khi tôi biết tất cả cây giống như bưởi da xanh, cam, quýt ông Mẫn đều lấy từ Bến Tre mang lên trồng. Đặc biệt, từ nhiều năm qua, khi trồng những giống cây có múi nói trên, trang trại của ông Mẫn không hề bị các loài sâu tấn công. Trong khi đó từ sau tết Nguyên đán 2013 đến nay, tôi đến nhiều tỉnh ĐBSCL, nhất là tại Bến Tre, một đại dịch sâu hồng đang hoành hành dữ dội trên các vườn bưởi da xanh. Ở đó, nhân dân kêu trời, các cuộc hội thảo phòng chống sâu bệnh trên các vườn cây có múi diễn ra liên miên! Nơi những vườn bưởi tôi đã đến, để trái bưởi không bị sâu đục, xì mủ rồi trái rụng, hầu hết cây bưởi đều ngủ mùng (bao trái). Nông dân suốt ngày quần quật với mảnh vườn của mình mới mong thu hoạch khá!

Chị Diệp Hồng thăm trang trại Anh Mỹ

            Mô hình lý tưởng
            Trời đứng bóng. Các cựu giáo viên và cựu học sinh dùng bữa với anh Mẫn. Thật cảm động cho buổi họp mặt bất ngờ hôm nay là có sự hiện diện của thầy Nguyễn Hữu Huệ từ quận Thủ Đức sang chơi. Trước năm 1975, thầy Huệ dạy môn vật lý tại Trường THCL Kiến Hòa rồi sau đó thầy về dạy tại huyện Mỏ Cày. Ở Trường THCL Kiến Hòa, có lúc thầy là cố vấn nhóm kịch Tổ Ong. Thầy nay tuy đã  71 tuổi nhưng trông còn trẻ, vẫn chuyện trò bộc trực như ngày nào.Thầy Huệ nói: “Các em phải lên nhà thầy chơi và nghỉ lại một đêm, thầy mong lắm…”.
Anh Mẫn cho tôi danh thiếp của anh. Tôi lại khá ngạc nhiên khi biết anh Trần Minh Mẫn là dược sĩ, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty TNHH Dược Phẩm Anh Mỹ (AMPHARMA). Anh Mẫn nói với tôi quê hương anh tại xã Hòa Lộc, huyện Mỏ Cày, năm 1981 anh tốt nghiệp cấp 3 tại Trường THPT huyện Mỏ Cày rồi thi vào Trường Đại học Y Dược TP HCM. Ra trường một thời gian, anh thành lập Công ty AMPHARMA. Đến năm 1999, anh và anh Ấu bắt đầu đầu tư vào lãnh vực trồng trọt tại xã Hiếu Liêm. Ông Mẫn tâm tình:Tôi và anh Ấu mỗi người đều phải điều hành 1 doanh nghiệp ( tôi là TGĐ Công ty cổ phần dược phẩm MEKONG, còn Anh Ấu là GĐ Công ty dược phẩm Anh Mỹ), nên thường cuối tuần mới lên trang trại. Sự thành công là nhờ các anh em hỗ trợ nhất là người quản lý điều hành là anh Trần văn Thận nắm rất vững về kỹ thuật”.
Ông Năm Hiền (quê xã Bình Khánh Đông, Mỏ Cày Nam, Bến Tre), người quản gia trang trại Anh Mỹ cho biết hiện trang trại có trên 50 nhân công chia đều ra các khâu:chăm sóc cây trái, vô phân bón, tỉa cành, tưới, thu hoạch…Tôi hỏi ông Năm Hiền:”Khi thu hoạch, trái cây chở đến các vựa bán?” Ông Năm cười nhẹ:” Các mối đến trang trại, thu mua và đóng kiện tại đây. Dịp gần tết…sung lắm nhưng riêng tôi thì không rảnh để về quê thăm nhà”. Đảo một vòng mắt nơi sảnh tiếp khách của trang trại Anh Mỹ với ao cá, nhà thủy tạ, một dãy nhà ngang với phía trước dây tơ hồng buông đều râm mát, phòng ăn, phòng ngủ, nhà vệ sinh…., tôi nói với ông Năm: “Vậy là êm quá rồi. Dân đồng bằng coi như trụ vững trên đất miền Đông”.
Giải thích vì sao nơi trang trại Anh Mỹ không bị sâu tấn công, anh Trần Minh Mẫn cho rằng vì trang trại này có diện tích rộng, gần trang trại không có vườn cây ăn múi nào nên mỗi khi khoanh vùng, xử lý thuốc trừ sâu đạt hiệu quả triệt để. Còn tại quê nhà như Bến Tre chẳng hạn, hộ canh tác với diện tích không nhiều ( 5-3 công đất hoặc chừng 1 hecta), lại trồng san sát nhau, nhen nhóm, xịt thuốc bên này thì bướm bay sang bên kia đẻ sâu.

          Tôi hỏi ông Nguyễn Minh Châu: “Thưa tiến sĩ, ông đánh giá  thế nào về sức sống của trang trại Anh Mỹ ?”. Tiến sĩ Châu cho biết ông đánh giá rất cao trang trại này vì thu nhập tại đây rất cao. Đặc biệt ở miền Đông mà làm được trái vụ trên cam quýt thì tay nghề phải rất cao, nhờ vậy giá bán mới cao, người trồng vừa nắm được kỹ thuật vừa nắm được thị trường cần lúc nào. Lại hỏi:”Hiện nay, tại ĐBSCL, đến các vườn cây có múi nhất là bưởi da xanh, bưởi năm roi đều thấy cây trái bị sâu hồng tấn công nhưng với trang trại Anh Mỹ thì không xảy ra. Ông lý giải vấn đề này ra sao?”. Tiến sĩ Châu nói: “Sâu đục trái, theo tôi, thì mấy vùng này do chưa có, chứ không phải trị được, vì đến nay giải pháp là bao trái, chứ chưa có giải pháp nào khác. Chỉ là chưa có thôi, tôi không nghĩ đó là do kỹ thuật nào hết”.

Các cựu giáo viên và cựu học sinh.